Học chế tín chỉ
04.2009
Năm 1993, Vụ Ðại học Bộ Giáo dục và Ðào tạo đề xuất đưa học chế tín chỉ vào các trường đại học nước ta, nhiều người ngỡ ngàng và ít trường hưởng ứng, chỉ có Ðại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh đi đầu thực hiện.
Năm 1998, Ðại học Thăng Long dạy và học theo học chế tín chỉ đầu tiên của khối đại học dân lập. Hiện nay, tại các trường đại học ở nước ta và nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở châu Âu, người ta nói nhiều về học chế tín chỉ và đang cố gắng đưa học chế tín chỉ vào nhiều trường đại học.
Học chế tín chỉ là gì?
GS, TS Lâm Quang Thiệp với báo cáo khoa học "Về phương pháp dạy, học và đánh giá thành quả học tập trong học chế tín chỉ" đã làm sáng rõ lý luận và phương pháp học, dạy theo học chế tín chỉ trong thời đại thông tin:
Bản chất của học chế tín chỉ là cá thể hóa việc học tập trong một nền giáo dục đại học cho số đông. Các triết lý làm nền tảng cho học chế tín chỉ là "giáo dục hướng về người học" và "giáo dục đại học đại chúng". Các triết lý này được vận dụng nhuần nhuyễn trong nền giáo dục đại học của Hoa Kỳ, nơi sinh ra học chế tín chỉ. Nó ra đời đầu tiên ở Ðại học Ha-vớt cuối thế kỷ 19. Các đặc điểm quan trọng của học chế tín chỉ quy định phương pháp dạy, học và đánh giá thành quả học tập. Do mục tiêu cá thể hóa việc học tập, học chế tín chỉ có đặc điểm quan trọng nhất là làm cho mỗi người học có thể học theo năng lực và điều kiện của riêng mình. Ðặc điểm này buộc người dạy phải sử dụng phương pháp giảng dạy sao cho phát huy được tính chủ động của người học, giúp người học biết cách học để tự học.
Quan niệm nền tảng của học chế tín chỉ là sự tích lũy kiến thức, quá trình học là quá trình kiến thức được cóp nhặt dần dần, tích lũy đến đâu được ghi nhận đến đấy. Do đó học chế tín chỉ chú trọng đến việc đánh giá kết quả học tập thường xuyên.
Ðơn vị tín chỉ được xác định dựa trên khối lượng lao động học tập của một sinh viên trung bình. Ðịnh nghĩa tín chỉ "Nếu một môn học có một giờ lên lớp trong một tuần, kéo dài một học kỳ thì được tính một tín chỉ" và "để bảo đảm một giờ học ở lớp cần ít nhất hai giờ học cá nhân". Theo định nghĩa này, tín chỉ bao gồm phần nổi (giờ học ở lớp) và phần chìm (hai giờ chuẩn bị cá nhân). Ðánh giá thành quả học tập phải đánh giá được cả phần nổi và phần chìm.
Từ lý luận trên, đặt ra phương pháp dạy và học theo tín chỉ trong thời đại thông tin. Nó được quan niệm tổng quát: Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú thêm bằng cách chọn, nhập và xử lý thông tin. Dạy là việc giúp cho người học tự mình chiếm lĩnh được những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi tình cảm, thái độ. Ðể chuyển đổi sang học chế tín chỉ, yêu cầu hàng đầu là phải đổi mới phương pháp dạy và học, theo tiêu chí "3C": Cách dạy học; Chủ động của người học; Công nghệ thông tin truyền thông mới.
Ðể việc dạy, học và đánh giá thành quả học tập theo học chế tín chỉ cần có các giải pháp tạo điều kiện về cơ sở vật chất: tài liệu đầy đủ, thư viện, công nghệ thông tin, thầy giỏi, tiếng Anh, tổ chức nhiều môn học, quản lý tốt... Ðặc biệt thầy dạy cách học cho sinh viên, để họ biết chủ động và tự học. Về phương pháp đánh giá thành quả học tập cần thực hiện thường xuyên trong tiến trình để thu được các phản hồi, nhằm điều chỉnh thường xuyên việc dạy và học. Hỏi đáp ngay tại lớp, làm các bài kiểm tra ngắn, sinh viên tự đánh giá kết quả học tập theo các mục tiêu phải đạt được trong môn học... Muốn vậy phải có đề cương chi tiết của giảng viên và học viên ngay từ đầu môn học. Ðề cương này xem như là hợp đồng giữa người dạy và người học. Giảng viên phải cho sinh viên biết lịch trình giảng dạy, các sách, website cần đọc, các mục tiêu cần đạt được trong môn học và thông báo cho họ biết ở lớp họ sẽ chỉ được nghe giảng cách học và những vấn đề cốt lõi quan trọng, còn các vấn đề khác, họ phải tự đọc trong sách. Với thỏa thuận đó giữa thầy và trò, bài thi kết thúc học phần sẽ đánh giá được cả phần nổi lẫn phần chìm trong quá trình dạy và học theo học chế tín chỉ.
Qua hơn mười năm Ðại học Thăng Long dạy và học theo học chế tín chỉ, đã tạo cơ hội cho sinh viên năng động, sáng tạo, vượt khó. Có bạn sáu năm chưa ra trường vì lý do cá nhân (kinh tế, thời gian). Nhưng cũng có bạn hai năm đã ra trường với hai bằng đạt loại giỏi...
Theo GS Hoàng Xuân Sính - Chủ tịch Hội đồng quản trị Ðại học Thăng Long: Cách học chế tín chỉ tạo điều kiện cho người học tự lập, chủ động. Nhưng vấn đề quản lý rất căng thẳng. Sinh viên có quyền chọn học hết lớp này đến môn khác, không cố định, không khuôn khổ. Trường phải nghĩ ra bao nhiêu cách để quản lý mà vẫn khó theo dõi được hết. Rồi phải tổ chức nhiều môn học, tìm thầy giỏi, giáo trình mới, đổi mới cách dạy và học, tư liệu, sách, công nghệ thông tin, thư viện, giảng đường hiện đại... cần rất nhiều tiền. Và người học thì sao? Sinh viên vốn rất thụ động. Có sách, có thư viện, có website, có thầy giỏi, giảng đường lớn, nhưng có bao nhiêu người biết say mê tự học? Phương pháp học chế tín chỉ không phải tự nhiên mà tới được. Nó sinh ra ở các nước giàu, con người có truyền thống tự lập cá nhân rất cao. Các trường đại học nước ta hiện nay muốn chuyển sang học chế tín chỉ, cần chuẩn bị kỹ về đội ngũ thầy dạy, cơ sở vật chất, người dạy, người học, đổi mới giáo trình, cách học, cách dạy, cách tổ chức, quản lý... mới có thể đạt kết quả. Trường nào chưa đủ các điều kiện chưa nên thực hiện.
GS Lâm Quang Thiệp nhiều năm làm việc ở Bộ Giáo dục - Ðào tạo, nhấn mạnh: Trong thời đại thông tin, với cách dạy, cách học mới, nhằm đào tạo những cá nhân tự chủ, tự lập. Ðể thực hiện học chế tín chỉ, vấn đề quan trọng hàng đầu và cũng là khó khăn lớn nhất chính là đổi mới phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập. Khắc phục khó khăn này không phải câu chuyện ngày một ngày hai, mà là sự phấn đấu của cả hệ thống giáo dục đại học nước ta trong nhiều thập niên, nhiều thế hệ.
MAI THỤC
(Theo nhandan.com.vn) |