Đổi mới tổ chức của Hội Khuyến học Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030
05.2020
|
GS.TS Nguyễn Thị Doan, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam |
Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết "Đổi mới tổ chức của Hội Khuyến học Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030" của GS.TS Nguyễn Thị Doan, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam nhân dịp Hội thảo Làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Một dân tộc dốt là một dân tộc yêu".
Đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn nhằm thực hiện mục tiêu của các tổ chức, là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển của tổ chức đó. Hội Khuyến học Việt nam không nằm ngoài tiến trình đó.
Sau 24 năm thành lập, thực hiện nhiệm vụ
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được Đảng, Nhà nước giao, việc
thực hiện nhiệm vụ đổi mới toàn diện cả về tổ chức, nội dung, hình thức hoạt động
qua mỗi nhiệm kỳ đại hội là việc làm đúng đắn, đã đưa Hội Khuyến học Việt nam
vào guồng máy hoạt động chung của cả nước, phát triển về cả chất và lượng, phù
hợp với xu thế của thời đại: phát triển kinh tế bằng tri thức, bằng phát minh,
sáng tạo, bằng khoa học công nghệ. Điều đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân
Viêt Nam, khơi dậy phẩm chất hiếu học, thông minh sáng tạo của nhân dân ta, thực
hiện lời dạy của Bác: Diệt giặc dốt, Ai cũng phải học, học suốt đời, học không
bao giờ cùng và nhằm phát huy tối đa văn hóa học của người Việt Nam vì “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”. Qua mỗi kỳ Đại hội của Hội Khuyến học Việt nam và
trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, những nội dung đổi mới được nhân dân ủng hộ,
chấp nhận với tinh thần nhiệt tình tham gia học, đọc để phát triển. Từ chỗ Hội
chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ giáo dục trong nhà trường, ngoài nhà trường thông qua
việc trao học bổng cho các cháu học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, vận động
trẻ em đến trường đúng độ tuổi, hỗ trợ giáo viên khó khăn hoàn thành nhiệm vụ...
đến vận động toàn dân đi học thông qua các mô hình: Gia đình học tập, dòng họ học
tập, cộng đồng học tập,... Hội đã có bước tiến khá lớn, góp phần quan trọng vào
sự phát triển đất nước thời gian qua. Hoạt động của Hội đã thay đổi về chất, đi
vào chiều sâu:
- Số
hội viên Hội Khuyến học Việt nam tăng từ 5 triệu người năm
2007 đến hơn 20 triệu người vào năm
2019 ở tất cả các lĩnh vực.
- Tổ
chức Hội đã phủ kín 100% xã, phường, thị trấn, đủ sức tổ chức thành công các nội
dung hoạt động. Đặc biệt tổ chức Hội phát triển mạnh trong các trường Đại học –
nơi chịu trách nhiệm nặng nề trong bồi đắp tri thức cho nhân dân, giúp nhân dân
hoạt động suốt đời.
- Tỷ
lệ gia đình học tập, dòng họ học tập.... năm sau cao hơn năm trước, đến năm
2019 tất cả các mô hình đều vượt chỉ tiêu đề ra.
- Các
cuộc tập huấn, hội thảo đều thành công tốt đẹp, đóng góp rất quan trọng vào thực
hiện NQ 29/TW/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục – Đào tạo”, trong đó
yêu cầu chuyển giáo dục đào tạo theo hướng mở, phục vụ nhu cầu học suốt đời, học
thường xuyên của nhân dân bước đầu được thực hiện có kết quả tốt.
- Quỹ
khuyến học tăng nhanh ở hầu hết các địa phương, có nơi bình quân 40.000 VNĐ/người
dân, trong khi chỉ tiêu đề ra: phấn đấu hết năm 2020 quỹ khuyến học bình quân đạt 20.000 VNĐ/người dân.
- Công
tác kiểm tra có nhiều đổi mới, tác động tích cực vào các Hội, giúp hoạt động Hội
đi vào nề nếp.
- Lĩnh
vực thi đua có nhiều khởi sắc. Giải thưởng “Nhân tài Đất Việt” và việc trao học
bổng cho người lớn có thành tích học tập xuất sắc đã tác động mạnh đến phong
trào học tập thường xuyên của người lao động ở tất cả các lĩnh vực của đời sống,
kinh tế, xã hội.
- Đặc
biệt việc tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong việc ban hành các văn bản và chỉ
đạo thực hiện các văn bản có kết quả là một bài học sâu sắc, một kinh nghiệm
quý báu được các cấp hội thực hiện. Những kết quả nổi bật đó đã đưa vị thế của
Hội Khuyến học lên một tầm cao mới, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao.
Tuy nhiên:
- Trong
bối cảnh đất nước ta chủ động tham gia cách mạng 4.0 theo Nghị quyết 52 của Bộ
Chính trị, hội nhập sâu rộng hơn vào trường Quốc tế, bắt buộc phát triển đất nước
bằng tri thức, dựa vào kinh tế tri thức,... đòi hỏi tất cả các tổ chức và từng
con người phải hoàn thiện mình, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số, kinh tế kết
nối, vạn vật kết nối hiện nay. Trong bối cảnh đó, với nhiệm vụ nặng nề được Đảng
và Chính phủ giao, Hội Khuyến học Việt nam bắt buộc phải đổi mới để đáp ứng yêu
cầu đề ra
- Trước
yêu cầu phát triển của đất nước nêu trên, nhìn vào thực tế trình độ, năng lực,
nhân lực tại chỗ và nguồn nhân lực đang được đào tạo, chúng ta thấy còn 1 bộ
phân lớn người lao động năng lực còn yếu, còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu về năng lực sử dụng công nghệ thông
tin, ngoại ngữ và kể cả năng lực xử lý tình huống. Điều đó đòi hỏi đội ngũ này
cần được đào tạo, đào tạo lại để họ theo kịp nhịp sống số hiện nay. Do đó,
phương pháp dạy và học đối với họ cũng phải thay đổi do họ đang lao động ở các
lĩnh vực khác nhau trong xã hội, không có thời gian tới lớp học.
- Khi
đất nước phát triển, cách phát triển đất nước trong thời gian dài không còn phù
hợp nữa. Nguồn tài nguyên cũng đã bị cạn kiệt và cũng không thể phát triển đất
nước bằng cách khai thác tài nguyên và khoáng sản để bán thô nữa vì việc làm đó
vừa tàn phá thiên nhiên, ảnh hưởng môi trường, vừa mang lại hiệu quả kinh tế,
xã hội thấp. Thay vào đó là phải khai thác nguồn tài nguyên trí tuệ - nguồn vốn
vô tận, quý giá nhất của mỗi quốc gia. Với nguồn tài nguyên này, ta càng khai
thác càng sáng và không bao giờ mất đi mà chỉ giàu có hơn, dồi dào hơn nếu nó
được bồi đắp thường xuyên thông qua sự học thường xuyên, học suốt đời.
- Từ
năm 2021 – 2030 với các chỉ tiêu phấn đấu được đề ra theo các văn kiện Đại hội
Đảng CSVN lần thứ 13, cùng với các chỉ tiêu trong NQ 52 của Bộ Chính trị (nếu
không có những tác động bất thường như dịch bệnh, thời tiết cực đoan) thì cả hệ
thống chính trị cần có quyết tâm cao độ, trước tiên là với sự nghiệp giáo dục
đào tạo, với sự học của toàn dân được nâng cao thì dân trí, trí tuệ, tri thức mới
được bồi đắp, mới giúp mọi người tham gia cách mạng 4.0 thành công. Cũng trong
bối cảnh đó, các nguồn viện trợ cho đất nước cũng sẽ không còn dồi dào như hiện
nay, đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của cả hệ thống chính trị trong đổi mới toàn diện
tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
- Trước
yêu cầu đó, cơ sở hạ tầng của chúng ta còn yếu, thiếu, chắp vá cũng là một lực
cản cho sự phát triển. Muốn kết nối phải có hạ tầng công nghệ thông tin tốt, có
trình độ ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin thuần thục. Song, một bộ phận
không nhỏ người lao động đang trong độ tuổi không có được điều đó. Họ đang rơi
vào tình trạng “mù chức năng”. Tất cả những điều nêu trên chi phối trực tiếp đến
hoạt động của Hội Khuyến học Việt nam. Nếu Hội không trong dòng chảy đổi mới của
đất nước thì không thể thực hiện được nhiệm vụ nòng cốt trong xây dựng xã hội học
tập, học tập suốt đời đã được nêu trong Kết luận 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư. Do đó, bắt buộc Hội phải
đổi mới để hoàn thiện về cả tổ chức, nội dung và hình thức hoạt động. Cụ thể:
I. Đổi
mới về tổ chức hệ thống Hội:
Theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, đổi mới phải đáp ứng
được đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Đổi mới tổ chức Hội phải phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của Hội. Đó là:
- Hội
tập hợp chủ yếu là những người đã về hưu, có nhiệt huyết tự nguyện cống hiến ở
Hội. Song, không được hưởng thù lao hàng tháng.
- Hội
không có mục đích tự thân mà chỉ toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của nước nhà. Do đó, chức năng, nhiệm vụ của
Hội không trùng với bất cứ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức hội nào. Hội Khuyến
học là hội đặc thù từ khi thành lập đến nay.
- Hội
nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Bộ Chính trị và Chính phủ không qua khâu trung gian
nào. Những nhiệm vụ được giao đều thông qua các Nghị quyết, Quyết định của Đảng
và Nhà nước. Song, Hội chỉ có Chi bộ, không có Đảng
đoàn và nhiều Đảng viên của Hội
không chuyển sinh hoạt về Hội. Bộ máy của Hội hiện nay tuy hết sức gọn nhẹ
nhưng phải giải quyết nhiều vấn đề lớn. Do đó, chất lượng tổ chức cần được nâng
cao nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả của tổ chức Hội. Như vậy, tuy là tổ chức
xã hội – nghề nghiệp gồm chủ yếu là những người về hưu đã cao tuổi nhưng trách
nhiệm lại hết sức nặng nề. Nhiệm vụ phải thực hiện có ảnh hưởng đến toàn xã hội.
- Quan
hệ công tác của Hội chủ yếu thông qua trí tuệ tập thể, quyết định theo đa số. Mối
quan hệ với các cơ quan có liên quan là quan hệ phối hợp, liên kết, thúc đẩy thực
hiện nhiệm vụ.
- Cơ
sở vật chất của Hội hầu như không có: không có trụ sở làm việc, không có kinh
phí cho cán bộ về hưu làm việc ở Hội (trừ chủ tịch và phó chủ tịch kiêm tổng
thư ký). Ở nhiều địa phương thì còn khó khăn hơn, kể cả kinh phí cho Hội hoạt động
cũng không có. Cá biệt có những tỉnh chưa quan tâm đến hoạt động của Hội Khuyến
học nên Hội hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn.
- Hội
là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là thành viên của một số Ban chỉ đạo
Quốc gia như: Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa khu dân cư”, Ban chỉ đạo thực hiện “Chương trình đào tạo nghề Quốc gia”,
thành viên Ủy Ban Giáo dục Quốc gia, Hội đồng Giáo dục Quốc gia...., nên phải
thực hiện nhiều công việc của các tổ chức này giao cho.
- Từ
những đặc điểm trên, đổi mới tổ chức Hội cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
1.
Đổi
mới tổ chức Hội phải mang tính hệ thống, đồng bộ vì cả hệ thống Hội dù trực thuộc
Trung Ương hay địa phương đều phải triển khai nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước
giao. Do đó, hệ thống Hội cần đảm bảo sự chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất của
Trung ương Hội Khuyến học Việt nam.
2.
Đổi
mới tổ chức phải đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy toàn diện trí tuệ
tập thể, không nhầm lẫn giữa chức năng nhiệm vụ của Hội với bất cứ tổ chức nào.
3.
Đổi
mới phải mang tính kế thừa, có tính đến đặc điểm năng lực và nhu cầu công tác của
đội ngũ cán bộ khuyến học nhằm phát huy tối đa năng lực của họ.
4.
Đổi
mới phải được sự đồng thuận, ủng hộ của các cấp ủy Đảng và chính quyền nhằm tạo
điều kiện cho Hội hoạt động.
Từ những yêu cầu nêu trên, đổi mới tổ chức Hội có thể
theo một số hướng sau:
1.
Không
sáp nhập Hội Khuyến học với bất cứ tổ chức hội nào.
Sắp xếp tổ chức lại theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực
đang là yêu cầu cấp thiết được đặt ra thì việc sáp nhập, hợp nhất tổ chức là một
trong những hình thức thiết kế tổ chức hữu hiệu nhằm tinh giản bộ máy. Sáp nhập, hợp nhất tổ chức là một hoạt động kết
hợp của hai hay nhiều tổ chức tương đồng với nhau và cho ra đời một tổ chức mới
bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của tổ
chức bị hợp nhất. Hợp nhất, sáp nhập về nguyên tắc sẽ tạo ra sức mạnh lớn hơn.
Đây là cơ hội để các tổ chức sàng lọc và loại bỏ những vị trí làm việc kém hiệu
quả, từ đó góp phần không nhỏ vào tinh gọn bộ máy.
Song, có 2 lý do để không sáp nhập Hội Khuyến học vào các
hội khác vì:
- Về
lý luận, chỉ tiến hành sáp nhập tổ chức khi các tổ chức này có nhiệm vụ, chức
năng tương đồng, cần thiết phải sắp xếp lại để tăng cường sức mạnh của tổ chức,
tinh giản bộ máy. Song đến nay, chức năng, nhiệm vụ của Hội Khuyến học không giống
hoặc tương đồng dù chỉ một phần với bất kỳ tổ chức hội nào, trừ Bộ Giáo dục –
Đào tạo. Song, Bộ Giáo dục – Đào tạo thuộc bộ máy hành chính Nhà nước còn Hội
Khuyến học là tổ chức xã hội – nghề nghiệp gồm những người đã về hưu, tự nguyện
tham gia hoạt động Hội. Hội chỉ có nhiệm vụ phối hợp với Bộ nhằm thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục đào tạo, xây dựng xã hội học tập mà thôi.
- Việc
sáp nhập, hợp nhất về nguyên tắc chỉ áp dụng đối với các cơ quan thuộc hệ thống
quản lý hành chính Nhà nước, toàn bộ nhân sự, kinh phí và các điều kiện hoạt động
đều do Nhà nước đảm bảo, hoạt động theo Hiến pháp và Pháp luật. Hội Khuyến học Việt nam không thuộc hệ thống đó.
Tuy nhiên, vừa qua cũng có khá nhiều hội ra đời. Một số hội
có chức năng, nhiệm vụ gần giống nhau có thể sáp nhập (nếu các hội tự nguyện,
theo Điều 13 QĐ 30 của Chính phủ). Trong số đó cũng không có Hội Khuyến học Việt
nam.
2.
Ở
Trung ương Hội Khuyến học Việt nam:
2.1.
Cần
xác định đúng vị trí việc làm trong tổ chức Hội:
Từ năm 2017 đến nay, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và
yêu cầu xác định vị trí việc làm của Trung ương, Hội cũng đã tiến hành sắp xếp
tổ chức, nhân sự cho phù hợp với yêu cầu công việc như: giảm đầu mối, phân
công, bố trí lại một số nhân sự của Văn phòng, Ban Thông tin, Ban tổ chức và
qua 2 năm triển khai, phương án này đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Công việc của
từng người hợp lý hơn, công việc được quản lý tốt hơn... Song hiện nay hoạt động
của Hội vẫn có điểm còn bất hợp lý, cần thiết phải nghiên cứu bố trí, sắp xếp
cho hợp lý hơn. Khâu đầu tiên vẫn là xác định vị trí việc làm. Đó là cơ sở để bộ
máy của Hội được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn trong điều kiện
kinh phí hạn hẹp, thù lao cho đa số cán bộ hoạt động ở Hội hầu như không có. Việc
xác định chính xác vị trí việc làm cộng với hoạt động theo chế độ tự chủ sẽ là
điều kiện tốt để cải thiện đời sống, nâng cao chất lượng công tác cho Hội.
Xác định vị trí việc làm đối với các cơ quan hành chính của
Đảng, Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí là nhân tố quyết định
trong cải cách chính sách tiền lương theo chức danh, chức vụ, năng suất lao động
trong từng cơ quan, đơn vị. Còn đối với Hội, đó là cơ sở để bố trí đúng người,
đúng việc, hợp với sở trường và sức khỏe từng người, phát huy cao độ tinh thần
làm việc của người cao tuổi. Trước Đại Hội VI Hội Khuyến học Việt nam, Hội cần
có đề án tổ chức cho nhiệm kỳ tới nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Điều này thể hiện quyết tâm chính trị
cao của lãnh đạo Trung ương Hội. Muốn thực hiện được, ngay từ bây giờ, chi bộ cần chủ động phối
hợp với thường trực, trước tiên là chủ tịch Hội, bàn bạc và giao Ban Tổ chức – Quản lý trung tâm nghiên cứu phương án trình Thường trực
bàn bạc dân chủ, quyết định theo đa số. Trong một tổ chức, yếu tố con người là
cơ bản nhất, quyết định nhất, nhưng cũng phức tạp nhất. Song với Hội, vấn đề
xác định vị trí việc làm cũng nhẹ nhàng vì cơ bản nhất là chọn đúng các biên chế
được giao vào vị trí và động viên người cao tuổi có năng lực, có nhiệt huyết, tự
nguyện cống hiến cho sự nghiệp khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Việc xác định vị trí việc làm đúng đắn, nghiêm túc sẽ góp phần nâng cao vị thế
của Hội hơn nữa, khắc phục tư tưởng “Hội ấy mà”, coi nhẹ hoạt động của Hội.
2.2.
Nghiên
cứu thành lập Đảng đoàn hoặc củng cố chi bộ cơ quan Trung ương Hội đủ mạnh.
Cùng với công việc sắp xếp tổ chức của cơ quan cũng cần
phải bàn về tổ chức Đảng trong cơ quan. Hiện nay tổng số đảng viên trong cơ
quan có 12 người, song có 4 người không chuyển sinh hoạt Đảng về hội mà sinh hoạt
ở địa phương. Trong số đó có 2 phó chủ tịch và 2 trưởng ban. Mỗi khi họp chi bộ,
4 đồng chí này không dự họp nên nhiều vấn đề không được quán triệt thấu đáo cho
tất cả các đảng viên trong chi bộ. Sức mạnh của tổ chức Đảng cũng bị hạn chế.
Công việc thì rất nhiều, chi bộ thì có đặc thù như trên nên hầu hết các công việc
được bàn trong Thường trực và do Thường trực quyết định. Vai trò của chi bộ bị lu mờ. Các đồng chí Đảng viên
còn lại trong chi bộ thì đã nghỉ công tác tại cơ quan Hội đã lâu, hầu như không
có đóng góp gì cho công tác của Hội. Vì vậy, muốn tổ chức Đảng mạnh lên, chỉ đạo
toàn hệ thống tốt hơn thì cần nghiên cứu thành lập Đảng đoàn tại Trung ương Hội.
Song để thành lập Đảng đoàn cần đến nhiều yếu tố, do đó cần phải được nghiên cứu
sâu và toàn diện.
Nếu không thành lập Đảng đoàn thì cần củng cố chi bộ để
chi bộ đủ sức lãnh đạo Hội. Song điều này sẽ khó khăn do Đảng viên trong chi bộ
toàn người về hưu. Theo quy định hiện hành, sau khi nghỉ công tác, Đảng viên đều
phải chuyển sinh hoạt Đảng về nơi cư trú. Hiện chưa có điều nào quy định người
về hưu nếu tham gia công tác Hội thì bắt buộc phải chuyển sinh hoạt Đảng về Hội,
kể cả người đó là Chủ tịch Hội. Với các hội không phải hội đặc thù thì vấn đề
này không ảnh hưởng nhiều tới hoạt động của hội. Nhưng với hội đặc thù thì vấn
đề nêu trên cần được Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu.
2.3.
Sắp
xếp lại các Ban, thu gọn đầu mối của cơ quan Trung ương Hội hoặc thành lập thêm
phòng, ban mới.
Thu gọn đầu mối là việc luôn được đặt ra trong công tác tổ
chức. Đầu mối phòng, ban của cơ quan Trung ương Hội hiện này không nhiều, song
vẫn cần xuất phát từ nhu cầu công việc và kinh nghiệm thực tế hoạt động của bộ
máy vừa qua để sắp xếp lại cho hợp lý hơn. Cần xác định trọng tâm, nhiệm vụ chủ
yếu của công tác khuyến học, khuyến tài giai đoạn 2021 – 2030 để có tổ chức bộ
máy phù hợp.
Theo Quyết định 489/QĐ-TTg ngày 8/4/2020 của Thủ tướng chính phủ về ban hành kế
hoạch thực hiện Kết luận 49-KL/TW của Ban Bí thư thì nhiệm vụ của Hội sẽ nặng nề hơn.
Đây là một căn cứ quan trọng để thiết lập bộ máy của Trung ương Hội cho phù hợp,
đủ sức thực hiện nhiệm vụ được giao. Muốn sắp xếp lại hoặc thiết lập bộ máy mới
trên cơ sở của bộ máy hiện có thì cần tiến hành đánh giá hiệu quả thực tế bộ
máy hiện nay. Trong đánh giá thì chú trọng sản phẩm được hoàn thành theo kế hoạch
của mỗi cá nhân và phòng ban về số lượng, chất lượng và thời gian hoàn thành sản phẩm đó.
3. Đối
với các địa phương
Hội Khuyến học địa phương do UBND các tỉnh quản lý, không
chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Trung ương Hội về tổ chức, nhân sự, nên đề nghị
các địa phương thực hiện tốt QĐ 489 nêu trên vì trong quyết định giao rất cụ thể
nhiệm vụ cho các địa phương về vấn đề khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập, bao gồm cả công tác tổ chức. Cụ thể Quyết định nêu “UBND các địa phương có
nhiệm vụ rà soát, củng cố và kiện toàn tổ chức, hoạt động của Hội Khuyến học
trên địa bàn”. Như vậy, Hội Khuyến học các địa phương sẽ được củng cố kiện toàn
đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, theo đúng nguyên tắc sáp nhập tổ chức
như đã nêu ở trên thì Hội Khuyến học ở địa phương cũng không thể sáp nhập với một
hội nào đó không cùng nhiệm vụ. Vả lại, theo yêu cầu của Kết
luận 49-KL/TW thì tổ chức Đảng phải trực tiếp lãnh đạo Hội Khuyến học và các đảng viên
phải là người gương mẫu thực hiện và tham gia công tác khuyến học nên chắc chắn
sẽ mạnh lên.
4. Yêu
cầu đối với cán bộ hoạt động trong Hội khuyến học các cấp trong cách mạng 4.0
Con người là yếu tố quan trọng nhất, cách mạng nhất trong
công tác tổ chức. Khi sắp xếp bộ máy, con người luôn được đặt ở vị trí trung
tâm bởi nếu họ không được thông về tư tưởng, ủng hộ chủ trương sắp xếp bộ máy,
xác định vị trí việc làm thì công việc cũng không thể tiến hành được. Mặt khác,
họ còn là người phải tiên phong trong học tập, nâng cao trình độ. Xuất phát từ
đặc điểm của Hội đã nêu trên, mỗi cán bộ khuyến học phải là tấm gương về học tập,
là một tuyên truyền viên giỏi, là một cán bộ dân vận khéo thì mới động viên được
toàn dân học tập, học tập suốt đời, học tập có kết quả, thực hiện tốt yêu cầu của
Đảng, Nhà nước đối với Hội. Chính vì vậy, giai đoạn 2021 – 2030 với nhiều nhiệm
vụ mới, lại trong bối cảnh Việt Nam chủ động tham gia cách mạng 4.0, mỗi cán bộ
khuyến học cần hoàn thành tốt các nhiệm vụ sau:
1.
Tích
cực học tập, rèn luyện để đạt tiêu chí công dân học tập mà chính Trung ương Hội
sẽ xây dựng trình Chính phủ ban hành
2.
Cần
năng động, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động nhân dân học ở mọi hình thức,
mọi nơi, mọi lúc có thể.
3.
Chủ
động đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt những vấn đề liên quan đến
sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng và sự tham gia của các đảng viên trong phong
trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
II. Một số giải pháp thực hiện các nội dung sắp xếp bộ máy, tổ
chức Hội Khuyến học Việt Nam
1.
Đẩy
mạnh tuyên truyền để toàn xã hội có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ của Hội Khuyến
học Việt Nam trong giai đoạn mới.
2.
Cần
tổ chức các sinh hoạt chuyên đề trong tổ chức Hội để mỗi hội viên nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của mình đối với công việc của Hội, đặc biệt trong sắp xếp tổ
chức, xác định vị trí việc làm.
3.
Việc
phát triển tổ chức Hội phải luôn được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và chính
quyền các cấp. Đây là nhân tố quyết định tạo thành công cho Hội.
4.
Cần
có sự quyết tâm cao độ của lãnh đạo Hội vì nguyên tắc làm việc của Hội là: bàn
bạc tập thể, quyết định theo đa số. Người đứng đầu sẽ chịu trách nhiệm toàn diện
khi triển khai thực hiện quyết định đó.
Công việc nhiều, lực lượng chưa mạnh, song với quyết tâm
cao, kinh nghiệm tốt, trách nhiệm nhiều, chúng ta sẽ thành công.
GS.TS Nguyễn Thị Doan
Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam
|