TW Hội Khuyến học Việt Nam | Thông tin | Xây dựng xã hội học tập | Cải cách giáo dục-đào tạo ở Nhật Bản hiện nay và so sánh với Việt Nam (tiếp kỳ 1)
 

 Tìm tin theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Giới Thiệu Tổ Chức 

XÂY DỰNG & PHÁT TRIỂN

 Công dân Khuyến học 


 Truyền hình thực tế 


 TỈNH HỘI KHUYẾN HỌC 


 
Thông tin » Xây dựng xã hội học tập 04.2024
Cải cách giáo dục-đào tạo ở Nhật Bản hiện nay và so sánh với Việt Nam (tiếp kỳ 1)
10.2008

Xem hình
Kỳ 2: Thành tựu và vấn đề đặt ra

Mặc dù cuộc đại cải cách giáo dục-đào tạo (GD-ĐT) Nhật Bản lần thứ ba đã được tiến hành gần hai thập niên qua nếu tính từ năm 1986 là năm khởi đầu, song cần thấy rằng, nhu cầu cải cách GD-ĐT đã từng là vấn đề thường xuyên được Nhật Bản quan tâm và thực thi.

Tuy nhiên thường đó chỉ là những sửa đổi ở phạm vi chủ trương, chính sách và cơ chế có tính thời sự do yêu cầu thực tiễn đặt ra, còn việc trở thành đường lối, và cao hơn cả là hoạch định một chiến lược dài hạn về phát triển GD-ĐT, từ đó cần phải tiến hành một cuộc đại cải cách GD-ĐT như đã có hai cuộc cải cách lần thứ nhất và thứ hai trong lịch sử cận đại và hiện đại Nhật Bản mà bài trước (Kỳ 1) đã nêu thì kể từ năm 1986, nước Nhật mới thực sự bước vào cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ ba như đã nêu trên.

Cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ ba đã diễn ra trong bối cảnh nước Nhật không có mấy thuận lợi, nếu như không muốn nói là suốt gần hai thập niên qua đã có quá nhiều khó khăn, thách lớn đến với quốc gia này. Cho dù đến nay Nhật Bản vẫn còn được thế giới ghi nhận là cường quốc thứ hai, song như nhiều nhà phân tích đã nhận định thì vị thế đó cũng đã bị suy giảm tương đối, trong khi Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh hơn với vị thế tương lai không xa, chỉ đến giữa thế kỷ 21, cứ đà này mà Nhật Bản trong khi đó nếu vẫn chỉ phát triển chậm chạp như hiện nay thì như nhiều nhà nghiên cứu đã dự báo, Tokyo sẽ phải nhường lại vị trí cường quốc thứ hai thế giới cho Bắc Kinh.

Chính vì thế, Nhật Bản suốt gần hai thập niên qua đã phải nỗ lực rất nhiều để tiến hành đồng thời các cuộc cải cách lĩnh vực, bộ phận trong tổng thể một cuộc đại cải cách chung của cả nước Nhật. Trong bối cảnh như vậy, riêng đối với cuộc đại cải cách GD-ĐT lần này, dễ thấy rằng, dù Nhật Bản hiện vẫn còn là “ người khổng lồ” song sức lực đó dù mạnh đến đâu cũng chỉ có hạn, vì thế tuy đã đạt được nhiều kết quả bước đầu, song cuộc cải cách đó vẫn đang còn tiếp diễn và cũng đã gặp phải không ít nan giải trong tiến trình thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ cải cách đã định ra.

1. Kết quả bước đầu

Có thể ghi nhận ở một số kết quả lớn nhất sau đây:

- Tiếp tục duy trì được “xã hội học tập suốt đời”.

Đó là truyền thống hiếu học và cần cù lao động của nhiều thế hệ người Nhật đã lưu giữ lại cho đến nay và cũng chính vì thế đã giúp cho thế hệ người Nhật trẻ tuổi những năm sau Thế chiến hai đã nỗ lực học tập, lao động để nhanh chóng trở thành “chủ lực quân” đưa nước Nhật bước lên vị thế cường quốc thứ hai thế giới.

Trước bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức hiện nay để cho nước Nhật tiếp tục không chỉ giữ vững mà còn vượt lên vị thế cao hơn nữa, không có con đường nào khác đối với một đất nước vốn đã rất nghèo tài nguyên là chỉ có trông cậy vào nguồn nhân lực trình độ cao, say mê lao động và sáng tạo. Cuộc cải cách GD-ĐT lần thứ ba này bước đầu đã đạt được kết quả rất quan trọng như vậy trong việc khơi dậy ý thức phấn đấu học tập và học tập suốt đời của thế hệ trẻ Nhật Bản đương đại. Thực tế là, người Nhật đã và đang thực hiện xã hội hoá công tác GD-ĐT ở mọi cấp học, ngành học, ở cả các trường công lập, bán công lập và trường tư thục. Đồng thời họ cũng cho mở cả những trường đại học từ xa dựa trên cơ sở phát thanh và truyền hình, tạo cơ hội cho tất cả những người từ 18 tuổi trở lên đều có thể tham gia... Đương nhiên, rút kinh nghiệm về những “lộn xộn” đã từng có từ việc chạy đua dạy thêm, học thêm, Bộ Giáo dục Nhật Bản ngay từ tháng 4/1990 đã soạn thảo một Dự Luật về vấn đề này, ngay sau đó Dự Luật này đã được Hạ Nghị viện Nhật Bản thông qua ngày 1/7/1990 với tên chính thức của Bộ Luật đó là: “Luật về duy trì hệ thống khuyến khích học tập suốt đời”.

- Thực hiện chú trọng cải cách giáo dục tiểu học và trung học cơ sở

Xuất phát từ quan điểm coi đó là những lứa tuổi khởi sự rất quan trọng của đời học sinh không chỉ về đào tạo kiến thức văn hoá cơ sở mà quan trọng hơn hết vấn là giáo dục hình thành nhân cách ở lứa tuổi này, vì nếu lứa tuổi này được giáo dục, đào tạo và hoàn thiện tốt thì sẽ là nền tảng tốt cho các bước phát triển tiếp theo.

Cụ thể là cho đến nay, ở các trường tiểu học và trung học cơ sở Nhật Bản đều đã thực hiện khá triệt để việc cải cách nội dung giáo dục theo hướng tăng cường sự phát triển năng khiếu, sở thích cá nhân học sinh trong việc tự do lựa chọn môn học và tạo các cơ hội bình đẳng về giới ở các hoạt động học đường. Bên cạnh hệ thống các trường chung có tính phổ biến, người Nhật cũng đã chú trọng xây dựng một hệ thống các trường đặc sắc (trường chuyên). Ở các trường chung cũng đều có hình thành nên các lớp đặc sắc (lớp chuyên). Điều lưu ý là không chỉ ở các trường, lớp chung mà cả các trường, lớp chuyên đều đang có xu hướng rút gọn, cắt giảm bót các môn học không bắt buộc để tăng thêm số giờ học đối với các môn học chuyên hoặc tự do lựa chọn của học sinh. Tình trạng “nhồi nhét kiến thức học thêm” cũng đã và đang giảm bớt dần...

-Mở rộng các cơ hội giáo dục bậc cao, thể hiện trước hết là việc tăng cường các số lượng cơ sở đào tạo, kể cả các trưòng công lập, bán công và trường tư nhân. Nhờ vậy mà bước vào thế kỷ XXI, Nhật Bản đã có tới 622 trường đại học, 585 trường đại học ngắn hạn, trong khi đầu những năm 1990 chỉ có 460 trường đại học và 536 truờng đại học ngắn hạn. Cùng thời gian đó, số sinh viên đã tăng từ 1.734.080 lên 2.448.804. Đáng lưu ý là đào tạo sau đại học cũng tăng trưởng rất ngoạn mục. Số đại học viện đã tăng từ 279 lên 463 cơ sở, số NCS cao học (thạc sĩ) và tiến sĩ đã tăng từ 65.692 người lên 191.125 người...

Ở đây cũng xin lưu ý rằng, việc đào tạo các học vị sau đại học, nhất là ở học vị tiến sĩ ở Nhật Bản cho đến nay vẫn được coi là rất khó khăn do yêu cầu rất cao về chất lượng khoa học và khả năng ứng dụng vào thực tiễn của các luận án. Ngoài ra, trình độ giao tiếp ngoại ngũ (chủ yếu vẫn là tiếng Anh) cũng là một tiêu chí đòi hỏi cao đối với các NCS học vị này. Vì thế, đã có thực tế xảy ra đối với không ít người nước ngoài, trong đó có cả người Việt Nam chúng ta sau một số năm sang Nhật Bản làm NCS tiến sĩ nhưng đã không bảo vệ được đúng kỳ hạn, phải trở về nước nhưng theo quy chế vẫn được phía bạn bảo lưu thêm một vài năm sau đó - khi đã đủ điều kiện mới sang bảo vệ lại. Song, cũng đã có trường hợp do không thể bảo vệ được học vị tiến sĩ ở Nhật Bản, phải trở về nước để tiếp tục bảo vệ thành công xong học vị đó.

Một điều khác có lẽ cũng rất khác biệt với Việt Nam, đó là vấn đề học hàm ở Nhật Bản mặc dù cũng được xã hội rất coi trọng nhưng thường chỉ là đối với những người trực tiếp làm công tác GD-ĐT, có nghĩa phải là các sensei thực sự. Sensei theo nghĩa chung nhất tiếng Nhật là danh từ chỉ những người làm nghề giáo dục, đào tạo nhưng nhất thiết phải là trực tiếp đứng trên bục giảng như ở Việt Nam vẫn gọi là các thầy giáo, giáo viên, giảng viên; nhưng với người Nhật, sensei cũng có nghĩa là giáo sư nếu là giảng viên ở cấp đại học và cách gọi trân trọng đầy đủ phải là daigaku no sensei. Tuy nhiên, ở các trường đại học Nhật Bản hiện nay, trong giao tiếp thường ngày giữa các trò với các thầy để ngắn gọn và thân thiện, thường các sinh viên đều vẫn gọi các giảng viên là sensei, và theo cách gọi phổ biến này chưa thể phân biệt rõ ai đã có học hàm phó giáo sư, giáo sư hay là chưa có. Cách gọi sensei ở Nhật Bản có thể hiểu tương tự như ở Việt Nam thời Pháp thuộc và miền Nam nước ta thời Mỹ-Ngụy trước đây vẫn có thói quen hay dùng từ giáo sư để gọi chung đối với những người đã hoặc đang trực tiếp làm nghề giáo dục- đào tạo từ cấp tiểu học cho đến đại học và cả sau đại học.

Chính vì thế ở Nhật Bản hiện nay, đối với các trí thức người Nhật để có học hàm phó gíáo sư, giáo sư thì trước hết đòi hỏi họ phải là những sensei thực sự (giảng viên đại học thực sự) và đối với không ít người trong số họ thì học vị tiến sĩ nhiều khi lại là điều “mơ ước” hoặc cũng có thể lại ít quan tâm đến nếu như họ không liên quan nhiều đến công tác nghiên cứu khoa học. Vì thế, đã có nhiều vị giáo sư (sensei) giỏi, danh tiếng ở các trường đại học nhưng lại chưa có học vị tiến sĩ và ngược lại cũng đã có nhiều tiến sĩ giỏi, danh tiếng ở các cơ quan nghiên cứu nhưng lại chưa có học hàm phó giáo sư, giáo sư nhưng cả hai trường hợp này đều được xã hội đề cao như nhau, không phân biệt rõ là ai hơn ai. Và đương nhiên, nếu như ở bất kỳ một trí thức bậc cao Nhật Bản nào đó mà ở họ nếu đạt được cả học vị và học hàm thì đều rất đáng để mọi người kính trọng vì trình độ của họ thực sự đúng là như vậy. Và cũng chính vì thế, ở Nhật Bản hiện nay, có thể nói rằng, ở các viện nghiên cứu thì lực lượng lao động trí thức bậc cao chủ yếu là các tiến sĩ, trong khi ở các trưòng đại học thì chiếm đa phần lại là các giáo sư (sensei) nhưng phải là những người đã được phong các loại học hàm, còn không cũng chỉ là những giảng viên đại học thông thường, những sensei thông thưòng. Tương tụ thế, ở các viện nghiên cứu cũng có thể có những nghiên cứu viên bậc cao có trình độ chuyên môn giỏi không thua kém gì các tiến sĩ, thậm chí có khi trong lĩnh vực chuyên môn sâu của họ còn có trình độ cao hơn, và do đó trong thực tế họ vẫn được các đồng nghiệp kính nể, cho dù họ chưa có học vị tiến sĩ. Có lẽ đây là điều khác biệt với Việt Nam mà trong một bài viết tiếp theo, tác giả sẽ có dịp bàn kỹ hơn.

2. Triển vọng.

Trên đây chỉ là những thông tin cơ bản nhất về cuộc đại cải cách GD-ĐT hiện nay của Nhật Bản. Như đã đề cập, cuộc đại cải cách lần này vẫn đang trên đường phát triển, chưa thể đạt tới những đỉnh cao của kết quả, thành tựu cải cách có tính bước ngoặt và mang lại những hiệu quả tác động lớn lao đối với sự phát triển chung của Nhật Bản như những kết quả, thành tựu mà hai cuộc đại cải cách GD-ĐT trước đây đã từng ghi đậm dấu ấn lịch sử Nhật Bản cận đại và hiện đại. Điều này có những nguyên nhân nhất định đã chi phối như đã đề cập đến là nước Nhật cho đến nay vẫn còn phải đồng thời vượt qua quá nhiều khó khăn, thách thức lớn của một cuộc đại cải cách trên tổng thể nhiều lĩnh vực khác nhau, trong khi như đã biết cho đến thời điểm này có lẽ khó khăn, thách thức lớn nhất đã và đang đặt ra cho Nhật Bản hiện tại mà trực tiếp “đứng mũi chịu sào” hiện đang là Chính phủ của tân Thủ tướng đương nhiệm Taro Aso là phải làm thế nào chèo lái “con thuyền Nhật Bản” vượt qua được những cơn sóng gió của chính trường, để từ đó mới có thể tiếp tục tập trung thực hiện tốt hơn nữa những cuộc cải cách còn đang dang dở, trong đó có cuộc đại cải cách GD-ĐT lần thứ ba mà bài viết này đã đề cập đến.

Biết rằng còn có nhiều điều mà cuộc cải cách này chưa thể làm được như các mục tiêu phấn đấu đã đề ra, song với những kết quả bước đầu đã đạt được trên đây cũng đã thể hiện một sự nỗ lực phấn đấu rất đáng trân trọng mà Việt Nam chúng ta nên tham khảo và học tập kinh nghiệm của người Nhật ở những yếu tố phù hợp với thực tiễn cải cách và phát triển GD-ĐT ở nước ta hiện nay. Về vấn đề này, tác giả sẽ đề cập đến trong bài viết tiếp theo ở Kỳ cuối… (Còn nữa).

Ảnh: Đại học Quốc gia Tokyo là trường danh giá nhất Nhật Bản và có tầm cỡ quốc tế. Trường đã được thành lập từ năm 1877 và hiện nay có nhiều chi nhánh (Campus) trên khắp nước Nhật. Trong ảnh là Đại học Tokyo, Campus Hongo (ở Tokyo); tác giả chụp đầu năm 1999.

Kỳ cuối: Vài so sánh với Việt Nam

Trần Anh

BBT (Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản VN)



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


Những bản tin khác:



Lên đầu trang
 Tìm hiểu 

Hội Khuyến học Việt Nam



 Tin mới cập nhật 
Hội Khuyến học Việt Nam và Hội Người cao tuổi Việt Nam ký kết chương trình phối hợp về hoạt động khuyến học, khuyến tài
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan gợi mở hướng phát triển xã Đông Tiến (Bắc Ninh) thành 'làng nghề học'
Đẩy mạnh khuyến học – khuyến tài trong hệ thống tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2024-2030
Hội Khuyến học Việt Nam kết nối với Hội Khuyến học báo ASAHI tiếp sức du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản
Tạp chí Công dân và Khuyến học vững niềm tin tiếp tục hành trình xây dựng xã hội học tập
Hội Khuyến học tỉnh Phú Thọ tổ chức thành công Đại hội Đại biểu nhiệm kỳ 2023-2028
GS.TS Nguyễn Thị Doan: Năm 2023, Hội Khuyến học Việt Nam đã đạt được kết quả toàn diện về khuyến học - khuyến tài
10 nhiệm vụ trọng tâm của hội khuyến học các cấp năm 2024
Công tác Khuyến học - khuyến tài năm 2023 đã huy động được sức mạnh tổng lực xây dựng xã hội học tập
Hội nghị Ban Thường vụ Hội Khuyến học Việt Nam: Chú trọng công tác tuyên truyền về khuyến học - khuyến tài
Hội Khuyến học tỉnh Lạng Sơn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ 5, nhiệm kỳ 2023-2028
Giao ban cụm thi đua khuyến học số 8: Nhiều mô hình học tập đạt kết quả trên 90%
10 sự kiện tiêu biểu về hoạt động của Hội Khuyến học Việt Nam năm 2023
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Giải thưởng Nhân tài Đất Việt khẳng định trí tuệ Việt Nam với khu vực và thế giới
Lễ trao Giải Nhân Tài Đất Việt 2023: Tôn vinh tài năng, khơi nguồn sáng tạo
Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2023: Tôn vinh những tấm gương tự học thành tài
Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2023: Đa dạng lĩnh vực, khơi nguồn sáng tạo
Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2023: Vươn tầm công nghệ, đổi mới sáng tạo
Gần 710 tỉ đồng dành cho khuyến học tại các tỉnh Bắc Miền Trung
Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Thị Doan thăm và làm việc tại Tây Ninh

 Tiêu điểm 
Hội Khuyến học Việt Nam và Hội Người cao tuổi Việt Nam ký kết chương trình phối hợp về hoạt động khuyến học, khuyến tài
Đẩy mạnh khuyến học – khuyến tài trong hệ thống tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2024-2030
Hội Khuyến học Việt Nam kết nối với Hội Khuyến học báo ASAHI tiếp sức du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản
Tạp chí Công dân và Khuyến học vững niềm tin tiếp tục hành trình xây dựng xã hội học tập
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan gợi mở hướng phát triển xã Đông Tiến (Bắc Ninh) thành 'làng nghề học'


Thời gian mở trang: 0.189 giây. Số lần truy cập CSDL: 11
Bản quyền thuộc Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam - Địa chỉ: Tầng 13 - Cung Trí Thức Thành Phố - số 1 Tôn Thất Thuyết - Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại Văn phòng: 0243 7726151 - Website: 0243 7726148 - Email: khuyenhocvn@gmail.com
Giấy phép số 254/GP-CBC ngày 16/6/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông và Công văn số 105/PTTH&TTĐT ngày 10/01/2014
của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử
Phụ trách website & biên tập: Ông Nguyễn Tiến Dũng - Trưởng ban Thông tin Tuyên truyền TW Hội Khuyến học Việt Nam.
Site được xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet v2.0 - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.