TW Hội Khuyến học Việt Nam | Thông tin | Xây dựng xã hội học tập | Kết luận 49 của Ban Bí thư Trung ương Đảng tạo bước chuyển biến mới trong chiến lược xây dựng xã hội học tập
 

 Tìm tin theo ngày 
Tháng Mười một 2024
T2T3T4T5T6T7CN
        1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30  
 <  > 
 Giới Thiệu Tổ Chức 

XÂY DỰNG & PHÁT TRIỂN

 Công dân Khuyến học 


 Truyền hình thực tế 


 TỈNH HỘI KHUYẾN HỌC 


 
Thông tin » Xây dựng xã hội học tập 11.2024
Kết luận 49 của Ban Bí thư Trung ương Đảng tạo bước chuyển biến mới trong chiến lược xây dựng xã hội học tập
07.2019

GS.TS Phạm Tất Dong - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội KHVN

Ngày 10/5/2019, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 49-KL/TW về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”.

Đây là văn kiện quan trọng, trong đó chỉ rõ phương hướng phát triển xã hội học tập và những nhiệm vụ khuyến học, khuyến tài từ sau khi tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW và chắc chắn giá trị chỉ đạo của Kết luận sẽ là lâu dài, chí ít cũng là giai đoạn 2020 – 2030 giai đoạn phát triển kinh tế tri thức dưới tác dụng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu hơn.

Ngày 18/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg về xây dựng xã hội học tập ở nước ta giai đoạn 2005 – 2010. Quyết định này thể hiện tư tưởng chiến lược xây dựng xã hội học tập từ cơ sở, xây dựng hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục trên địa bàn hành chính cấp xã. Việc học tập suốt đời được thực hiện trong các mô hình gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học và cộng đồng khuyến học. Những mô hình hiếu học và khuyến học này phải thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục phổ thông đúng độ tuổi của trẻ em và thúc đẩy việc học tập suốt đời của người lớn. Trung tâm học tập cộng đồng cùng với nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, bưu điện văn hóa xã phải giúp người lao động học tập trong cộng đồng, gắn với cộng đồng và vì cộng đồng.

Ngày 9/1/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 89/QĐ-TTg về xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 – 2020, phê duyệt nhiều đề án về tổ chức học tập và phương thức học tập của người lớn. Đến đây, các mô hình hiếu học và khuyến học đã chuyển sang các mô hình học tập trên địa bàn hành chính cấp xã, bắt đầu hình thành mô hình cấp xã học tập. Bước chuyển biến này có tầm quan trọng đặc biệt bởi hướng phát triển xã hội học tập ở nước ta đã tiếp cận thêm một bước với xu thế xây dựng các vùng học tập trên thế giới.

Cuối năm 2016, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW. Vào thời điểm này, mô hình cộng đồng học tập cấp xã đã được định hình, xuất hiện hàng ngàn xã học tập, phường học tập và thị trấn học tập. Sự phát triển tiếp theo của phong trào học tập suốt đời trông chờ vào những kết luận của Trung ương Đảng sau đợt tổng kết này.

Ngày 10/5/2019, Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã được ban hành trong sự hân hoan đón chào của hàng chục triệu người đang tham gia phong trào khuyến học trong cả nước. Ngay sau ngày 10/5/2019, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam đã có công văn gửi tới 63 tỉnh, thành Hội địa phương, yêu cầu phải phổ biến sớm Kết luận này đến từng Chi hội khuyến học và Ban khuyến học.

Kết luận 49-KL/TW có 8 nội dung cơ bản cần được cán bộ, đảng viên trong các tổ chức từ Trung ương tới cơ sở quán triệt sâu sắc để chỉ đạo chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn đối với phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Nhưng với cách tiếp cận từ xu thế phát triển giáo dục người lớn của thế giới hiện đại, chúng ta có thể điểm ra những yêu cầu mới của Trung ương Đảng đối với cuộc vận động xây dựng xã hội học tập ở nước ta trong những năm 2020 – 2030 như sau:

1. Kết luận đầu tiên đã nói lên cái mới căn bản của Văn kiện 49-KL/TW là, nếu Chỉ thị 11-CT/TW nhấn mạnh trách nhiệm chỉ đạo của cấp ủy đối với phong trào khuyến học, khuyến tài để xây dựng xã hội học tập, thì nay Ban Bí thư nói rõ thêm rằng,tổ chức đảng và cán bộ đảng phải gắn việc thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW với đánh giá kết quả công tác hàng năm của Đảng bộ địa phương. Nói khác đi, hàng năm trong báo cáo tổng kết của cấp ủy phải có mục “triển khai và kết quả thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW của tổ chức Đảng ở địa phương. Hơn nữa, kết quả cụ thể là ở chỗ, đảng viên ở địa phương có đạt danh hiệu công dân học tập hay không, gia đình đảng viên có được quần chúng bình chọn là gia đình học tập hay không, và bản thân tổ chức đảng có đạt yêu cầu là đơn vị học tập hay không.

Ba danh hiệu này mà không đạt đầy đủ thì tổ chức đảng ở địa phương không thể được đánh giá là tổ chức đảng gương mẫu, vững mạnh được. Tất nhiên, hàng năm, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhất là những người đứng đầu chính quyền, Mặt trận và đoàn thể phải có trách nhiệm duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Nếu ở địa phương nào, công tác khuyến học, khuyến tài yếu kém, việc xây dựng xã hội học tập ở cơ sở chưa đạt yêu cầu thì không còn quy riêng trách nhiệm cho Hội Khuyến học.

2. Ban Bí thư cho rằng, xây dựng xã hội học tập là một xu thế phát triển của nền giáo dục thời đại. Do vậy, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về xây dựng xã hội học tập, và do đó, về khuyến học, khuyến tài trước hết phải từ các tổ chức đảng và đảng viên. Với cách nhìn nhận đó, Ban Bí thư yêu cầu phải xây dựng những chuyên đề về khuyến học, khuyến tài và xã hội học tập để đưa vào Chương trình giáo dục chính trị tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đây là vấn đề lớn và không đơn giản bởi lý luận và thực tiễn của sự nghiệp xây dựng xã hội học tập cũng như của công tác khuyến học, khuyến tài là rất phong phú. Nó bao hàm những vấn đề về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác, nội dung về những chuyên đề này là hết sức phong phú (cả về lý thuyết, quan điểm, chính sách, kinh nghiệm lẫn chiến lược riêng).

3. Trong Kết luận 49-KL/TW, có một vấn đề đặt ra với các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và tổ chức xã hội là phải thúc đẩy công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong việc xây dựng mô hình “Đơn vị học tập” tại các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trong các lực lượng vũ trang. Thực chất của công việc này là thúc đẩy việc học tập suốt đời của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động, trong đó, những đảng viên phải là người gương mẫu và đạt những danh hiệu học tập như trên đã nói.

Nhà nước sắp ban hành Bộ tiêu chí đánh giá công nhận “Đơn vị học tập”. Đến nay, khung tiêu chí về đơn vị học tập được dự kiến 3 tiêu chuẩn, mỗi tiểu chuẩn có một số tiêu chí và mỗi tiêu chí sẽ có một vài chỉ số đánh giá. Cụ thể như sau:

Tiêu chuẩn 1:

Những điều kiện phải có để đơn vị công tác trở thành đơn vị học tập.

Tiêu chuẩn 2:

Mỗi thành viên trong đơn vị phải là công dân học tập (điều này cụ thể hóa kết quả học tập của cả đơn vị).

Tiêu chuẩn 3:

Tác dụng của đơn vị học tập đối với sự phát triển của cơ quan, của xã hội bên ngoài.

Tiêu chuẩn 2 bao gồm nhiều tiêu chí đánh giá công dân học tập. Những tiêu chí này là một tập hợp những năng lực cốt lõi, những giá trị cơ bản của mỗi cá nhân trong đơn vị (ví dụ: năng lực tự học, năng lực sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin, năng lực hợp tác với các người khác trong tập thể, tinh thần khởi nghiệp; ý thức chấp hành kỷ luật lao động và luật pháp...).

4. Xây dựng hệ thống giáo dục mởđể bảo đảm cho mỗi công dân có nhiều cơ hội và điều kiện để học tập suốt đời, trước hết, cần có ngay một số trường đại học mang tính mở bên cạnh những trường đại học mở đang hoạt động.

Những yêu cầu cơ bản về nền giáo dục mở gồm:

a. Mở về đối tượng học:Bảo đảm ai cũng tham gia học tập, không ai bị bỏ quên trong tổ chức học tập, không ai bị thất bại trong học tập.

b. Mở về tài nguyên giáo dục:Xây dựng một kho dữ liệu khổng lồ về học liệu, tài liệu học tập như sách giáo khoa, sách tham khảo, các bài giảng, các băng ghi hình, ghi âm, các video, các biên bản ghi chép trong thảo luận hoặc nghiên cứu giáo dục v.v...

c. Mở các lớp, các khóa đào tạo: Cần có đủ các khóa đào tạo dài hạn (vài năm), trung hạn (vài tháng), ngắn hạn (vài giờ). Ai cần học theo thời gian nào thì chọn khóa đào tạo, ai cần học vấn đề nào thì chọn trong tài nguyên giáo dục mở.

Vấn đề cơ bản nhất là mọi yêu cầu tri thức và kỹ năng ở bậc đại học đều phải chuẩn bị đầy đủ để nhân dân lựa chọn thời gian, nội dung học một cách thuận lợi.

d. Mở về phương tiện học tập:Học tập qua thuyết trình trên lớp, qua các lớp, các khóa trực tuyến... đều có phương tiện tốt nhất để học. Ví dụ, qua lớp học ảo thì dùng máy tính bảng hay điện thoại thông minh. Học ngoại ngữ có phòng ghi âm, học để rèn luyện kỹ năng có máy chiếu hình, có phòng thí nghiệm v.v...

e. Mở về phương pháp:Có thể qua nghe giảng như các lớp học truyền thống thường làm, qua trao đổi, chia sẻ tri thức, qua hội nghị, hội thảo, qua tự học hoặc tự học có hướng dẫn.

5. Thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức đi đôi với xóa mù chữ cho người lớn. Về thực chất, thực hiện chế độ học bắt buộc, đối với bất kỳ người nào, kể từ người có trình độ giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đến cử nhân, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trung cao cấp, các cán bộ quản lý trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể v.v... là công việc được gọi là xóa mù chữ chức năng, (còn gọi là xóa mù chữ hành dụng). Hiểu theo cách khác, đó là xóa mù kỹ năng hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, y tế, quốc phòng. Nếu không theo kịp sự đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến thì coi như đang mù kỹ năng.

Xóa mù chữ cơ bản là để bảo đảm quyền biết chữ của công dân. Xóa mù chữ chức năng để bảo đảm quyền hành nghề của công dân. Mù chữ, mù nghề, mù ngoại ngữ, mù máy tính đều rơi vào tình trạng dốt nát phải khắc phục.

Hiện nay, xóa mù chữ chức năng là việc lớn, hết sức quan trọng. Không có ai dám nói rằng, mình không bị mù chức năng. Chống mù kỹ năng là để bảo đảm người lao động học vì công việc, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm các sản phẩm làm ra có uy tín cao, tạo ra những thương hiệu mới.

6. Xây dựng các mô hình “Tỉnh học tập”, “Thành phố học tập” là một nhiệm vụ rất mới mà Ban Bí thư yêu cầu phải làm từng bước vững chắc. Hiện nay, theo Thông tư 44/2014/TT-BGDĐT, chúng ta đã xây dựng được xã học tập, phường học tập, thị trấn học tập. Trước hết, phải xây dựng được mô hình cộng đồng học tập cấp huyện (tức là xây dựng huyện học tập, quận học tập, thị xã học tập).

Cấu trúc của cộng đồng học tập cấp huyện được mô tả theo hình vẽ dưới đây:

Khái niệm “Đơn vị học tập” đã được trình bày ở mục (3). Ở đây, đơn vị học tập là các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp... (do cấp huyện quản lý) đạt các tiêu chí học tập.

Khi đã có mô hình cộng đồng học tập cấp huyện thì chúng ta sẽ xây dựng mô hình “Tỉnh học tập”, “Thành phố học tập” với cấu trúc như hình dưới đây:

Đơn vị học tập ở đây là các công sở, cơ quan, trường học, doanh nghiệp, bệnh viện... trên địa bàn tỉnh (do chính quyền cấp tỉnh quản lý) đạt các tiêu chí học tập.

Ở đây cần nói thêm rằng, trong Kết luận 49-KL/TW có câu “Chủ động, tích cực tham gia mạng lưới “Thành phố học tập” do UNESCO điều hành”. Khái niệm thành phố học tập này được hiểu như sau:

Ở các nước phát triển, đất nước họ đã đô thị hóa vùng nông thôn, giữa vùng nông thôn với vùng thành thị không có sự cách biệt lớn có chăng, thành phố lớn của họ có số dân rất đông, và tất nhiên hạ tầng cơ sở có phần hiện đại hơn. Song, vùng nông thôn đã đô thị hóa, lối sống không khác lạ gì so với lối sống của các thành phố lớn và siêu lớn.

Thuật ngữ Thành phố học tập ở đây được hiểu là các vùng học tập, khu công nghiệp học tập, khu chế xuất học tập, vùng biển đảo học tập, cảng học tập với điều kiện quy mô dân số từ 5000 trở lên.

UNESCO đưa ra 42 tiêu chí đánh giá xếp hạng thành phố học tập. Quốc gia nào hưởng ứng – tức là tự nguyện thực hiện 42 tiêu chí thì UNESCO đưa thành phố của quốc gia đó vào mạng lưới thành phố học tập trên thế giới.

Tuy nhiên, UNESCO cũng mềm dẻo trong việc này, ví dụ Việt Nam đề xuất Bộ tiêu chí gồm 36 tiêu chí cụ thể, trong khuôn khổ 42 tiêu chí của họ thì vẫn được đăng ký vào mạng lưới thành phố học tập do họ điều hành. Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang khuyến khích các thành phố của ta tham gia mạng lưới thành phố học tập của UNESCO, tất nhiên vẫn có thể xây dựng tỉnh hay thành phố như cấu trúc trên kia.

7. Củng cố và phát triển các tổ chức của Hội Khuyến học ở các cộng đồng dân cư, phát triển các tổ chức khuyến học trong cơ quan, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, lực lượng vũ trang... Bắt đầu từ năm 2018, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam đã tiến hành cuộc vận động xây dựng các Chi hội khuyến học hoặc Ban khuyến học tại các trường cao đẳng và đại học, các trường dạy nghề. Mục tiêu chính là để các đơn vị này đẩy mạnh việc học tập suốt đời trong hàng ngũ cán bộ khoa học, các giảng viên cao cấp, từ đó giúp các thế hệ sinh viên học tập để khởi nghiệp, lập nghiệp, xây dựng các trường thành những đơn vị học tập vững mạnh.

Với bệnh viện, viện nghiên cứu, việc thành lập các tổ chức khuyến học là để thúc đẩy họ góp sức vào xây dựng các loại hình tài nguyên giáo dục và các kho tư liệu lớn có tính chuyên ngành để từ đó giúp người dân có nhiều tài liệu học tập hơn nữa, ví dụ tài liệu về bảo vệ sức khỏe, luyện tập thể lực, tự chữa bệnh, các tài liệu tham khảo để sáng tạo và khởi nghiệp.

8. Gắn kết tiêu chí công nhận mô hình học tập, công dân học tập, gia đình học tập, đơn vị học tập... với việc công nhận các mô hình văn hóa, với các danh hiệu thi đua.Ý tưởng này đã được nung nấu từ lâu và được nhiều người đề đạt ý kiến với Mặt trận Tổ quốc, với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch... Vấn đề là, chúng ta muốn đề cao hơn nữa ý nghĩa và giá trị của văn hóa trong đời sống xã hội. Nhiều năm qua, việc bình xét các danh hiệu văn hóa thường coi nhẹ ý nghĩa và vai trò của các mô hình văn hóa trong cuộc sống cộng đồng. Việc bình xét rơi vào hình thức. Nhiều tổ dân phố không giữ gìn được sự hòa khí giữa nhiều gia đình hoặc để tình trạng mất vệ sinh cống rãnh, nhà vệ sinh công cộng nhưng vẫn được nhận danh hiệu tổ dân phố văn hóa. Nhiều gia đình có lối sống thiếu văn hóa nhưng vẫn là gia đình văn hóa. Nếu đưa các tiêu chí học tập vào việc công nhận các mô hình văn hóa thì giá trị gia đình văn hóa, khu phố văn hóa sẽ tăng lên.

Hướng giải quyết vấn đề này là, nếu không đạt danh hiệu học tập thì gia đình không thể là gia đình văn hóa; một tổ dân phố không là cộng đồng học tập thì không thể đạt danh hiệu tổ dân phố văn hóa, một xã không được công nhận là xã học tập thì xã đó không thể đạt danh hiệu xã nông thôn mới v.v...

9. Trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội học tập cần coi trọng sự hợp tác quốc tế. Những lý do cơ bản là:

- Các nước có hệ thống giáo dục người lớn tiên tiến có nhiều kinh nghiệm xây dựng các mô hình học tập. Họ có thể chia sẻ với chúng ta những bài học quý giá để chúng ta không phải tìm tòi, thử nghiệm quá nhiều trong việc xác định những hướng đi, những nội dung, những phương pháp xây dựng xã hội học tập phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

- Sự hợp tác quốc tế có thể giúp Việt Nam tiếp cận được nhiều nguồn lực cần để xây dựng xã hội học tập thuận lợi hơn.

- Sự hợp tác quốc tế là cơ hội để chúng ta hội nhập sâu hơn với trào lưu xây dựng xã hội học tập trên thế giới.

Thực ra, UNESCO từ lâu đã khuyến khích Việt Nam có sự hội nhập sâu hơn về xã hội học tập, thông qua đăng ký những thành phố vào hệ thống thành phố học tập thế giới. Họ coi việc học tập suốt đời là chìa khóa để phát huy mạnh mẽ năng lực con người, qua đó trao quyền cho quần chúng trong việc giải quyết những vấn đề có sự thay đổi liên tục trong đời sống xã hội, trong môi trường sống và những thách thức kinh tế, công nghệ và kỹ thuật. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, quảng đại cư dân phải được học tập trong một hệ thống học tập liên thông từ giáo dục cơ sở đến đại học, phát triển phương thức học tập và tự học tại nơi làm việc và tại gia đình, sử dụng các công nghệ học tập hiện đại để học tập điện tử, học tập mọi lúc, mọi nơi, học tập bằng các máy di động v.v... Điều quan trọng nhất là UNESCO muốn xây dựng văn hóa học tập cho mỗi người và mỗi cộng đồng.

Trong tương lai không xa, chúng ta phải xây dựng những thành phố thông minh, thành phố hạnh phúc, thành phố xanh... mà về thực chất, những thành phố này phải dựa vào tri thức, trí tuệ và sự thông minh, thông thái của con người học tập suốt đời. Nói cách khác, các loại hình thành phố nói trên chỉ là những biểu hiện cụ thể của thành phố học tập.

Tóm lại, Kết luận 49-KL/TW là Chỉ thị mới của Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW trong hoàn cảnh mới trước bối cảnh xã hội mới. Để triển khai Kết luận 49-KL/TW cần bảo đảm các điều kiện sau đây:

- Cấp ủy và chính quyền các cấp phải có quyết tâm chính trị cao về xây dựng xã hội học tập, cam kết với nhân dân thực hiện Di chúc thiêng liêng của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh: Ai cũng được học hành.

- Đảng và các lực lượng xã hội đều có nhiệm vụ và trách nhiệm xây dựng nước ta thành một xã hội học tập.

- Khuyến học, khuyến tài phải trở thành chính sách quốc gia để xây dựng xã hội học tập.





 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


Những bản tin khác:



Lên đầu trang
 Tìm hiểu 

Hội Khuyến học Việt Nam



 Tin mới cập nhật 
Đại hội đại biểu Hội Khuyến học tỉnh Cao Bằng lần thứ VI, nhiệm kỳ 2024 - 2029
Toạ đàm "Một số giải pháp khuyến khích nữ sinh viên - học sinh vượt khó học giỏi"
Kỷ niệm 16 năm Ngày Khuyến học Việt Nam: Không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp trồng người
Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam phát động Giải thưởng "Nhân tài Đất Việt năm 2025"
Hội Khuyến học Việt Nam sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận 49-KL/TW
Toàn văn phát biểu của Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Thị Doan nhân kỷ niệm 16 năm Ngày Khuyến học Việt Nam
Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam: "Thiên tai và nghịch cảnh khiến con người càng coi trọng việc học"
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan: Vận dụng tư tưởng của Bác về phát triển con người vừa Hồng vừa Chuyên
Hội Khuyến học Việt Nam góp phần đào tạo bồi dưỡng người công dân tốt trong thời kỳ mới
Tạp chí Công dân và Khuyến học phát động cuộc thi viết “Gia đình học tập”
Trao giải cuộc thi viết "Sức khỏe học đường - Vì chất lượng nguồn nhân lực đất nước"
Hội Khuyến học tỉnh Nam Định trao học bổng không bao giờ cùng 2024
Hội Khuyến học Việt Nam ký kết phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Hội Khuyến học Việt Nam ủng hộ đồng bào các địa phương bị ảnh hưởng bão số 3
Hỏi - Đáp về công tác Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập
Giáo sư Nguyễn Thị Doan: Học sinh "đắm mình" trong công nghệ, giáo viên phải đổi mới không ngừng để thích ứng
Chủ trương xây dựng và phát triển xã hội học tập ở Việt Nam
Nhà báo, Nhà văn Huỳnh Dũng Nhân: 70 tuổi tôi vẫn tự học, kể cả học từ học trò của mình
Đẩy mạnh các mô hình, không gian phục vụ học tập suốt đời
Long An: Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đạt nhiều kết quả nổi bật

 Tiêu điểm 
Kỷ niệm 16 năm Ngày Khuyến học Việt Nam: Không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp trồng người
Hội Khuyến học Việt Nam sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận 49-KL/TW
Toàn văn phát biểu của Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Thị Doan nhân kỷ niệm 16 năm Ngày Khuyến học Việt Nam
Tạp chí Công dân và Khuyến học phát động cuộc thi viết “Gia đình học tập”
Hội Khuyến học Việt Nam góp phần đào tạo bồi dưỡng người công dân tốt trong thời kỳ mới
Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam phát động Giải thưởng "Nhân tài Đất Việt năm 2025"
Hội Khuyến học Việt Nam ký kết phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Đại hội đại biểu Hội Khuyến học tỉnh Cao Bằng lần thứ VI, nhiệm kỳ 2024 - 2029
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan: Vận dụng tư tưởng của Bác về phát triển con người vừa Hồng vừa Chuyên
Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam: "Thiên tai và nghịch cảnh khiến con người càng coi trọng việc học"


Thời gian mở trang: 0.255 giây. Số lần truy cập CSDL: 11
Bản quyền thuộc Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam - Địa chỉ: Tầng 13 - Cung Trí Thức Thành Phố - số 1 Tôn Thất Thuyết - Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại Văn phòng: 0243 7726151 - Website: 0243 7726148 - Email: khuyenhocvn@gmail.com
Giấy phép số 254/GP-CBC ngày 16/6/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông và Công văn số 105/PTTH&TTĐT ngày 10/01/2014
của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin Điện tử
Phụ trách website & biên tập: Ông Nguyễn Tiến Dũng - Trưởng ban Thông tin Tuyên truyền TW Hội Khuyến học Việt Nam.
Site được xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet v2.0 - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.