Công dân học tập
08.2016
|
GS.TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam |
Website Trung ương Hội Hội Khuyến học Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết "Công dân học tập" của GS.TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam đến toàn thể hội viên và bạn đọc:
I. Giáo dục và học tập
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như
trên sách báo, có 2 thuật ngữ thường xuyên được nhắc đến: Giáo dục (Education)
và Học tập (Learn). Hầu như mọi người trong xã hội, chẳng ai xa lạ với 2 cụm từ
này, thế nhưng, không ít người vẫn lẫn lộn 2 cụm từ đó trong khi nói hoặc trong
khi viết. Đó là một khiếm khuyết, tạo nên sự thiếu chuẩn xác trong tư duy giáo
dục cũng như trong hoạch định chiến lược phát triển giáo dục và chiến lược đẩy
mạnh việc học tập suốt đời cho công dân tại các cộng đồng dân cư.
1. Giáo dục được định nghĩa là những
hoạt động nhằm phát triển kiến thức, các giá trị đạo đức và những tri thức cần
có trong mọi giới ở xã hội. Mục đích của giáo dục là cung cấp cho thế hệ trẻ và
người lớn tuổi những điều kiện thiết yếu đểphát triển sự hiểu biết về những truyền thống và những tư tưởng ảnh hưởng tới
xã hội mà họ đang sống, về nền văn hóa của dân tộc họ và các nền văn hóa khác
trên thế giới, về các quy luật của tự nhiên và xã hội, hình thành và phát triển những kỹ năng ngôn ngữ và các kỹ năng khác làm
cơ sở cho việc học tập và giao tiếp.
Giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là quá
trình giảng dạy và đào tạo trong nhà trường, được gọi là giáo dục học đường
(giáo dục trong nhà trường). Giáo dục học đường có 3 mục đích cơ bản:
- Hình thành và phát triển nhân
cách;
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực;
- Phát triển và bồi dưỡng tài năng.
Giáo dục theo nghĩa rộng được hiểu
là một hệ thống các thiết chế giáo dục trong mọi ngành học, bậc học, cấp học của
một quốc gia; các phương thức tổ chức giáo dục cho trẻ em và người lớn, bao gồm
giáo dục học đường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; các hình thức giảng dạy
với những điều kiện và phương pháp khác nhau như giáo dục chính quy, giáo dục
không chính quy và giáo dục phi chính quy. Với ý nghĩa đó, giáo dục được hiểu
là một hệ thống giáo dục quốc dân.
Mục tiêu của hệ thống giáo dục quốc
dân là nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, phát triển hệ thống ngành nghề nhằm
tăng cường năng lực lao động sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội một cách bền vững, làm phong phú vốn con người, vốn xã hội và
vốn tổ chức của quốc gia.
Giáo dục học đường và giáo dục ngoài
học đường đều thực hiện 2 chức năng cơ bản:
- Xã hội hóa con người;
- Nghề nghiệp hóa con người.
Giáo dục học đường và giáo dục ngoài
học đường phải được Nhà nước tổ chức và quản lý trong sự gắn kết chặt chẽ với
nhau, liên thông và thống nhất.
2. Học tập là quá trình tích lũy kiến
thức, tiếp thu tinh hoa của các thế hệ đi trước một cách chọn lọc để kế thừa và
sáng tạo ra cái mới tốt hơn.
Những thuật ngữ thường được thay thế
cụm từ học tập là học hành, học hỏi. Tuy nhiên, tùy từng văn cảnh mà người ta
chọn cụm từ thích hợp nhất. Nhìn chung, nói đến sự HỌC, ta hiểu đó là quá trình
tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau
giồi các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và các giá trị cần thiết cho cuộc sống,
đáp ứng nhu cầu nhận thức hay sở thích của mỗi người.
Trong mọi hoạt động của con người
như lao động, vui chơi, giải trí, làm từ thiện, tập luyện thể thao…, kiến thức,
kỹ năng cùng các nhận thức về các giá trị đều có thể tăng lên. Qua các hoạt động,
con người cũng có sự tích lũy tri thức, kinh nghiệm. Quá trình tích lũy đó, về
thực chất, là học tập.
Quá trình học tập thể hiện ở sự thâu
tóm các thông tin và xử lý các thông tin để thành hiểu biết của cá nhân. Các thông tin đã qua con người xử lý sẽ trở
thành tri thức của họ.
Con người học để có năng lực hoạt động
cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và tự cải tạo chính mình. Vì vậy, người ta học
để làm (hành). Học mà không hành thì việc học không mang lại cho xã hội và cho
chính người học những lợi ích mới, những tiến bộ mới.
Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đưa
ra 4 chữ H khi kêu gọi nhân dân phải tham gia các quá trình học: Học, Hỏi, Hiểu,
Hành.
3. Đứng trên quan điểm xây dựng xã hội
học tập, trong đó, mỗi công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ học tập suốt đời
thì giáo dục là phương tiện cơ bản, còn
việc học tập là mục đích phải đạt. Đó là lí do chúng ta xây dựng một xã hội
học tập chứ không phải là xã hội giáo dục.
Chỉ chăm lo phát triển nhiều trường
lớp, càng nhiều càng tốt mà quên mất điều mở nhiều trường để giúp con người học
được nhiều hơn, học được tốt hơn thì thật là một lệch lạc về tư tưởng. Ngay khi
có một nền giáo dục tốt rồi thì cũng không thể nghĩ giáo dục là vạn năng trong
việc đào tạo con người.
Trong tác phẩm “Học tập – Một kho
báu tiềm ẩn”, Jacques Delors đã viết như sau: “Giáo dục không phải là phương thuốc thần kỳ và cũng không phải là công
thức kỳ diệu để mở cánh cửa đi vào một thế giới trong đó mọi lý tưởng đều có thể
thực hiện được, mà chỉ là một trong số các phương tiện chính sẵn có, thúc đẩy
hình thái phát triển nhân loại sâu sắc hơn, hài hòa hơn và do đó làm giảm bớt
tình trạng nghèo khổ, sự bài trừ, sự ngu dốt, sự áp bức và chiến tranh”.
4. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI, xây dựng xã hội học tập đã trở thành một xu thế tất yếu trên thế giới, nhất
là ở các quốc gia phát triển và các quốc gia đang hướng tới một nước công nghiệp
hiện đại, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức. Tháng 7/2000, Hội nghị Thượng
đỉnh các nước G8 họp ở Okinawa (Nhật Bản) để
bàn đến chiến lược xây dựng kinh tế tri thức có khả năng cạnh tranh và năng động
nhất thế giới. Hội nghị coi việc tiếp cận học suốt đời là vấn đề then chốt để tạo
ra nguồn lực cho chiến lược.
Đứng trước vấn đề này, nhiều nước đã
hoạch định chính sách quốc gia về giáo dục
người lớn và phải xây dựng Luật giáo
dục suốt đời (Canada,
Hàn Quốc, Thái Lan…). Như vậy là, họ đã tính toán đồng bộ những điều kiện cơ bản
cho người dân học tập suốt đời: có những
chính sách quốc gia và có hành lang pháp lý để việc học tập của từng người
dân thực hiện được việc học hành trong những hoàn cảnh sống cụ thể của họ và được
sự hỗ trợ của Nhà nước để việc học được thường xuyên trong quá trình sống và hoạt
động.
Có 2 vấn đề lớn được đặt ra trước
các quốc gia:
Một là: Không thể ngay một lúc xây dựng
xã hội học tập trên mọi địa bàn dân cư trong cả nước, mà phải chọn một số địa
bàn cụ thể, tập trung nguồn lực để thực
hiện được chủ trương xây dựng từng cộng
đồng học tập trước khi triển khai đại trà, thực hiện cả nước trở thành
một xã hội học tập.
Hai là: Phải định hướng xây dựng con người với những năng lực và phẩm
chất nhất định đáp ứng được yêu cầu phát triển của cộng đồng học tập. Đó là
sự định hướng vào mô hình công dân học tập.
II.
Định hướng mô hình công dân học tập.
1. Về xây dựng cộng đồng học tập, Việt
Nam chủ trương xây dựng xã hội học tập từ cơ sở nên cộng đồng học tập được chọn
đầu tiên là cộng đồng học tập cấp xã,
nghĩa là, việc triển khai xây dựng mô hình xã hội học tập được bắt đầu từ việc
hình thành và phát triển các xã học tập, phường học tập và thị trấn học tập
theo Thông tư 44/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Công việc này mới bắt
đầu từ năm 2016.
2. Hầu hết các quốc gia đều chọn cộng
đồng học tập là những thành phố. Thành phố
học tập. Đó là mô hình cộng đồng học tập đã được nhiều nước đưa vào chương
trình phát triển của mình. Tổ chức UNESCO đã hỗ trợ cho chương trình này và là
nơi làm nhiệm vụ kết nối các quốc gia có kế hoạch xây dựng các thành phố học tập.
Ban đầu có 7 thành phố của các nước thành viên của OCED (tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế được mời tham gia chương trình xây dựng thành phố học tập).
Đó là Edmonton (Canada),
Gothenburg (Thuỵ Điển), Vienna (Áo), Adelaide (Australia),
Pittsburgh (Hoa
Kỳ), Kakegawa (Nhật Bản) và Edinburgh (Bỉ).
3. Về định hướng mô hình công dân học
tập, các quốc gia đều chủ trương xây dựng các tiêu chí về năng lực và phẩm chất
cần thiết, phù hợp với yêu cầu của cộng đồng học tập. Tất nhiên, mỗi bước đi
lên của cộng đồng học tập tất kéo theo việc bổ sung hoặc thay đổi các tiêu chí
theo hướng nâng cao và ngày càng hoàn thiện hơn.
Có 4 nhóm năng lực và phẩm chất tâm
lý được lựa chọn nhiều nhất là:
Nhóm
năng lực và những phẩm chất cần cho con người làm chủ và phát triển bản thân:
·
Tự học trên cơ sở ham học, ham tiến bộ.
·
Giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra trong đời sống
hàng ngày.
·
Sáng tạo trong công việc, tìm tòi cái mới, không
làm theo khuôn mẫu.
·
Tự quản lý bản thân và công việc được giao.
Nhóm
năng lực và phẩm chất thực hiện các quan hệ xã hội.
·
Có khả năng giao tiếp với những người xung
quanh, với đồng nghiệp.
·
Tinh thần hợp tác, ý thức tập thể trong công việc
sản xuất cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.
Nhóm
năng lực và phẩm chất sử dụng công cụ trong lao động và trong sinh hoạt hàng
ngày.
·
Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
·
Sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ).
·
Khả năng tính toán lập kế hoạch.
Nhóm năng lực và phẩm chât cần cho chuyên
môn - nghiệp vụ
·
Năng lực chuyên môn thuộc các lĩnh vực khác nhau
(Kỹ thuật, công nghệ, nghệ thuật, sư phạm, văn học…)
·
Năng lực thể chất và năng lực tinh thần (sức khoẻ,
quản lý sức khoẻ, hiểu biết về bảo vệ sức khoẻ, phòng bệnh, sử dụng thực phẩm
chức năng và thuốc chữa bệnh…)
III.
Một số mô hình công dân học tập trên thế giới.
Việc nghiên cứu những mô hình công
dân học tập của một số quốc gia là cần thiết bởi qua đó, ta có thể thấy được
phương pháp luận cũng như phương pháp tiếp cận cần tham khảo.
1.
Mô hình công dân học tập của Singapore
Singapore là một quốc gia - thành phố, hầu như không có
tài nguyên thiên nhiên. Hướng phát triển của họ là định hướng con người đi vào
cạnh tranh thương mại trên thị trường thế giới. Chính vì vậy, Singapore rất chú ý xây dựng năng lực
tư duy cho con người cần có khi trở thành công dân toàn cầu.
Singapore xây dựng Công dân học tập
với những năng lực và phẩm chất cốt lõi trong thế kỷ XXI như sau:
·
Lòng tự tin
·
Năng lực tự học
·
Năng lực sử dụng công nghệ thông tin ·
Năng lực ngoại ngữ
·
Tinh thần trách nhiệm và sự quan tâm tới quốc
gia
·
Năng lực đóng góp nhiều cho xã hội
·
Tư duy toàn cầu
·
Năng lực giao tiếp
(Nguồn:
21st Century Competencies, MOE Singapore, 2014)
2. Mô hình công dân học tập của Hàn Quốc
Cũng như Singapore, Hàn Quốc là một quốc gia
phát triển nhanh với chiến lược Công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Tại quốc
gia này, tài nguyên thiên nhiên rất hiếm, và chiến lược của họ là phải tăng nhanh tài nguyên con người. Hàn Quốc
trở thành một cường quốc hàng xuất khẩu. Họ chủ trương phải xây dựng nhanh những
thành phố học tập và từ đó, phải có được những công dân học tập có đủ năng lực
cạnh tranh toàn cầu.
Hàn Quốc chú ý nhiều đến mô hình
công dân học tập như sau:
·
Năng lực sáng tạo trong hoạt động
·
Năng lực sử dụng công nghệ số
·
Năng lực ngoại ngữ
·
Ý thức học tập suốt đời
·
Tinh thần đóng góp xây dựng xã hội
·
Năng lực
tư duy phản biện
(Nguồn: Soon-ok Jo, Nghiên cứu điển
hình: Xây dựng xã hội học tập ở Hàn Quốc, 2012).
Để có được công dân học tập như vậy,
ở Hàn Quốc người ta xây dựng các chính sách học tập suốt đời dựa trên 3 trụ cột:
Trụ
cột 1: Phát triển đầy đủ tiềm năng con người và cải thiện đời sống.
Trụ
cột 2: Tăng khả năng tìm kiếm việc làm và năng lực tự tạo việc làm.
Trụ
cột 3: Thúc đẩy năng lực hoà nhập xã hội, hình thành một xã hội hoà nhập,
phát triển công dân trưởng thành qua giáo dục công dân.
3.
Mô hình công dân học tập ở Canada
Là một nước phát triển ở Châu Mỹ, Canada
đi vào xây dựng xã hội học tập với sự quan tâm nhiều đến công dân học tập của
quốc gia.
Trong điều kiện phát triển hiện nay,
Canada
định hướng tới những năng lực và phẩm chất của con người mà theo họ, không thể
thiếu được trong thế kỷ XXI: ·
Năng lực sáng tạo, đổi mới, tinh thần lập nghiệp
·
Năng lực tư duy phản biện
·
Năng lực và tinh thần hợp tác lao động
·
Năng lực giao tiếp, sử dụng công nghệ truyền
thông và thông tin
·
Có tính cách của công dân trong một xã hội dân
chủ và bình đẳng
·
Có trình độ văn hoá, đạo đức công dân và lối sống
lành mạnh
·
Năng lực sử dụng công nghệ số và máy tính
(Nguồn: A 21st Century
vision of public education for Canada, 2012)
4. Mô hình công dân học tập OCED
Các nước trong
OCED chú ý đến 3 nhóm năng lực cơ bản của công dân học tập ở thế kỷ XXI:
a. Nhóm năng lực sử dụng các công cụ tương tác
·
Sử dụng công nghệ
thông tin
·
Kỹ năng ngôn ngữ (nhất
là ngoại ngữ trong giao tiếp)
·
Kỹ năng tính toán b. Nhóm năng lực giao tiếp, tương tác trong các nhóm xã hội
·
Quan hệ với người khác
·
Hợp tác với người khác
·
Quản lý (điều hoà được)
những xung đột ý kiến
c. Nhóm năng lực hành động tự chủ
·
Hành động phù hợp trước
những bối cảnh khác nhau
·
Năng lực xây dựng và
thực hiện kế hoạch cá nhân
·
Năng lực xác định được
quyền lợi, quan tâm và điều hoà hợp lý nhu cầu cá nhân
(Nguồn: Definition and Selection of Key Competencies, OCED,
2005)
III. Việt Nam với
những đặc trưng mong muốn ở công dân học tập
1. Trên cơ
sở các báo cáo khoa học tại các Hội thảo quốc gia về “Xây dựng xã hội học tập - từ tầm nhìn đến hành động” diễn ra trong
những năm 2013, 2014 và 2015 cũng như một số nghiên cứu của những chuyên gia
giúp việc cho Ban Chỉ đạo Quốc gia về xã hội học tập, ta có thể khái quát những
đặc trưng mong muốn về năng lực và phẩm chất của công dân học tập Việt Nam những
năm 2016 - 2020 và trong tầm nhìn 2030:
·
Năng lực định hướng việc
học và ý thức cam kết học tập suốt đời.
·
Năng lực sử dụng công
nghệ thông tin một cách hiệu quả trong học tập và làm việc.
·
Hiểu biết về quyền và
nghĩa vụ công dân.
·
Lối sống lành mạnh, an
toàn và thân thiện với môi trường.
·
Tư duy phê phán, sáng
tạo, suy luận và năng lực giải quyết các vấn đề đặt ra.
·
Tinh thần đoàn kết, hợp
tác, trao đổi, chia sẻ với người khác.
·
Có ý thức và khả năng
lập nghiệp, tự tạo việc làm, lao động có năng suất cao.
·
Yêu hoà bình, quan tâm
đến những vấn đề của khu vực và toàn cầu có liên quan đến đất nước.
(Nguồn: Những
Hội thảo Quốc gia về “Xây dựng xã hội học tập - Từ tầm nhìn đến hành động”,
2013 - 2014).
2. Ở Việt Nam, việc lựa
chọn địa bàn xây dựng xã hội học tập lại là cấp hành chính xã. Các mô hình học
tập đang được triển khai gồm Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng (thôn
bản, tổ dân phố…) học tập và Đơn vị học tập theo Quyết định 281/QĐ-TTg cùng Cộng
đồng học tập cấp xã theo Thông tư 44/2014/TT-BGDĐT. Quá trình nghiên cứu các mô
hình học tập trên chưa tính tới yếu tố hạt nhân là con người trong các mô hình
đó. Nói cách khác, ở nước ta chưa có một chủ trương và quyết định của Đảng và
Nhà nước về mô hình công dân học tập. Điều ấy có nghĩa là, mục tiêu của xã hội học tập cũng như động lực để xây dựng xã hội học tập là con người học tập lại chưa được nghiên cứu. Nếu như ở trên kia có
nói đến những đặc trưng mong muốn của công dân học tập trong xã hội học tập ở
nước ta giai đoạn trước mắt thì đấy cũng chỉ là một ý muốn, một suy nghĩ. Đặc
trưng ấy có phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta nói
chung, và với một vùng kinh tế, một địa phương nào đó hay không là điều chưa có
cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn để xác định.
Rõ ràng,
trong lĩnh vực nghiên cứu xây dựng xã hội học tập ở nước ta, tuy đã có hàng chục
công trình nghiên cứu về cấu trúc xã hội học tập, về các mô hình học tập, về
các thiết chế học tập, nhưng vẫn còn một khu vực chưa được khai phá: Mô hình “Công
dân học tập” phù hợp với các mô hình học tập đã có là gì.
3. Theo
Quyết định 281/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2012 đến năm 2020, có 4
mô hình học tập trên địa bàn cấp xã phải được xây dựng. Đó là:
·
Mô hình gia đình học tập.
·
Mô hình dòng họ học tập.
·
Mô hình cộng đồng học
tập (thôn xóm học tập, bản làng học tập, tổ dân phố học tập…)
·
Mô hình đơn vị học tập
(trường học học tập, hợp tác xã học tập, cơ quan học tập…)
Con người
học tập hay công dân học tập là một yếu tố hạt nhân trong các mô hình nói trên.
Để xác định
những năng lực cốt lõi của công dân học tập ở nước ta và xây dựng Bộ tiêu chí
đánh giá những năng lực đó, chúng ta phải đặt con người vào bối cảnh xây dựng
xã hội học tập từ cơ sở.
Nội dung
học tập của công dân học tập được cụ thể hoá ở 4 trụ cột giáo dục mà UNESCO đề
xuất:
- Học để
biết.
- Học để
làm.
- Học để
chung sống.
- Học để
hoàn thiện nhân cách.
Triết lý
xây dựng công dân học tập là Học để làm
người.
Ở Việt Nam, trong những
năm tới, chúng ta nên phát động toàn dân noi gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về học tập suốt đời, thực hiện tốt quá trình “Học, Hỏi, Hiểu, Hành” một
cách thường xuyên trong cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Tất Dong - Xây
dựng xã hội học tập ở Việt Nam.
Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội, 2012.
2. Phạm Tất Dong - Đổi
mới tư duy giáo dục vì một xã hội học tập. Tài liệu lưu hành nội bộ, Hội Khuyến
học Việt Nam,
2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam- Các văn kiện Đại hội X, XI,XII. Nhà XB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2001, 2006, 2011, 2016.
4. Fukuzawa YukichiKhuyến học - Nhà Xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
5. Jacques Delors - Học
tập: Một kho báu tiềm ẩn - Bản dịch tiếng Việt. Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội,
2002.
6. Katherine Muller Marin - Những điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công xã hội
học tập ở Việt Nam.
Kỷ yếu Hội thảo “Xã hội học tập: Từ tầm nhìn đến hành động”. Thành phố Hồ Chí
Minh, 12/2014.
7. Luận về Quốc học.Nhà Xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1999.
8. Pak Tee Ng. Xã hội
học tập Singapore:
Các chiến lược phát triển nguồn vốn trí tuệ và việc đối phó với cuộc khủng hoảng
tài chính 2008/09 - Rew.12 July 2012, B.T.X.VINES…
9. Sobhi Tawil - Nhìn
lại học tập: Kho báu tiềm ẩn. Báo cáo ảnh hưởng của Báo cáo Jacques Delors. Tài
liệu tham khảo của UNESCO Hà Nội, 2014.
10. Sumok Jo: Xây dựng
thành phố học tập suốt đời ở Cộng hoà Hàn Quốc. Hội nghị về xây dựng Hải Dương
thành thành phố học tập. Hải Dương, 2012.
11. Phạm Đỗ Nhật Tiến:
Đơn vị học tập, Cộng đồng học tập - Đặc trưng và giải pháp. Hội thảo quốc gia:
Xã hội học tập - Từ tầm nhìn đến hành động. Phú Thọ, 2014.
12. Tổ thư ký ban CĐQG về XHHT: Các đặc trưng mong muốn và lộ trình thực hiện đến năm
2020. Hội thảo Quốc gia: “Xã hội học tập - Từ tầm nhìn đến hành động” - Hà Nội,
2014.
13. Văn kiện của Chính phủ về XHHT. Các Quyết định 89/QĐ-TTg, Quyết định 281/QĐ-TTg và Thông tư
44/2014/TT-BGDĐT.
14. Nguyễn Thị Hoàng Yến- Từ công dân học tập đến xã hội học tập - Hội thảo Quốc gia “Xã hội học tập -
Từ tầm nhìn đến hành động”, 2014. |
GS.TS Phạm Tất Dong |