'Đẩy mạnh xây dựng XHHT, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời' *
09.2014
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế công nghiệp đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn thế giới trong điều kiện tri thức nhân loại phát triển vượt bậc, cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục đạt được những thành tựu kỳ diệu.
Để có được bước chuyển biến vĩ đại đó, trong
nhiều năm qua nhiều quốc gia trên thế giới đã rất coi trọng phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ để tạo nên ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó nhiều quốc gia đã có chiến lược xây
dựng xã hội học tập trong đó mọi người dân đều có cơ hội, có điều kiện
học tập và ai cũng học suốt đời. Vì vậy trong khoảng vài chục năm trở lại đây, xây dựng và phát
triển xã hội học tập đã trở thành xu thế lớn ở nhiều quốc gia trên
thế giới.
Đối với các nước phát triển việc phổ cập giáo dục bậc
trung học coi như đã hoàn thành, vì vậy trong xã hội học tập, việc cung cấp
những tri thức mới cho người dân có học vấn trung học và sau trung học là cơ bản.
Đối với các quốc gia đang phát triển thì việc học tập
của người dân được thực hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau: từ thanh toán
nạn mù chữ, bổ túc văn hóa tiểu học và trung học, đào tạo nghề, cung cấp học vấn
đại học, sau đại học đến việc thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo lại nhằm không
ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao tay nghề cho
công nhân, người lao động, v.v… Để thực
hiện các yêu cầu đó, các nước đang phát triển phải đổi mới nền giáo
dục nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người dân đều được học và
học suốt đời, một mặt coi trọng nâng
cao dân trí, mặt khác phải ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
đất nước.
Như
vậy tất cả các nước trên thế giới, cả những nước phát triển và những
nước đang phát triển đều có chung một yêu cầu là không ngừng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực theo bước tiến không ngừng của tri thức nhân loại
và của khoa học công nghệ. Từ đó giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đã trở thành yếu tố quyết định tương
lai của mỗi dân tộc, sự phát triển của mỗi quốc gia, trở thành quốc sách hàng đầu
của nhiều nước, là động lực của sự phát triển, từ đó đầu tư cho giáo dục chính là
đầu tư cho sự phát triển. Phù hợp với
xu thế đó, Đảng ta đã sớm khẳng định: ngay trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước, Việt Namđã phải xây dựng xã hội học tập. Mười năm trước đây, khi mới bước vào thế kỷ 21 Đại hội toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đã quyết định phải tạo điều kiện cho mọi người
dân đều được học theo hệ thống chính quy hoặc không chính quy, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập.
Đại hội toàn quốc lần thứ X tiến thêm một bước khẳng định: “chuyển dần mô hình
giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục
mở - mô hình xã hội học tập”, và vừa qua Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã xác định: đẩy mạnh xây dựng xã hội học
tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời (Trích cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH, Bổ sung và phát triển năm 2011). Xã hội học tập và học tập suốt đời là hai
yếu tố tác động lẫn nhau trong mối quan hệ nhân quả. Phải làm cho người dân nhận
thức được sự cần thiết và tính chất quan trọng phải học tập suốt đời, có ý thức
tự giác học tập và học tập thường xuyên mới xây dựng được xã hội học tập; có
xây dựng được xã hội học tập thì người dân mới có cơ hội và điều kiện học tập
suốt đời.
Xây
dựng xã hội học tập gắn liền với yêu cầu mọi người dân phải học tập thường xuyên,
học tập suốt đời đã trở thành một xu thế lớn. Có nhiều bài học thành công
của xu thế đó. Xin đơn cử một vài
ví dụ tiêu biểu:
Nhật Bảnlà nước bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới lần thứ 2
(1939-1945), bại trậnnên phải chấp nhận những điều ước nghiệt ngã của phe Đồng minh. Nhưng chỉ sau hơn hai chục năm nước Nhật
đã hồi phục một cách nhanh chóng, trở thành một cường quốc có nền
kinh tế lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ).
Nhiều
người gọi đó là “Sự thần kỳ Nhật Bản” và đi tìm lời giải cho sự phát
triển thần kỳ đó. Nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới đã đi
đến kết luận Nhật Bản thành công làdo
đã giải quyết tốt bài toán chất lượng nguồn nhân lực. Cùng với việc tổ chức tốt và nâng cao
chất lượng đào tạo trong hệ thống các trường học chính quy, Nhật
Bản đã có sáng kiến tổ chức học tập cho người lớn tại cộng đồng
một cách rất có hiệu quả tại các Kominkan (dịch ra tiếng Việt là
Trung tâm học tập cộng đồng). Đây
là một thiết chế giáo dục được tổ chức tại khắp các địa bàn dân cư
từ thành thị đến nông thôn, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người
dân. Chính các Kominkan đã tạo cơ
hội và điều kiện cho người dân Nhật được học và học suốt đời, không
ngừng nâng cao hiểu biết, phát triển kỹ năng và tay nghề, nhờ đó làm
thay đổi chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo nên những đột
phá về năng suất lao động và về chất lượng cuộc sống của người dân.
Tổng Giám Đốc UNESCO khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Ông Victor Ordonez
đánh giá “Trung tâm học tập cộng đồng có thể coi là phát minh quan trọng
nhất về giáo dục mà bấy lâu nay thế giới đang tìm kiếm”. Chính đây là một thiết chế giáo dục
quan trọng để xây dựng xã hội học tập từ cơ sở. Nhật Bản đã thể chế
hóa mô hình Kominkan và thành lập Ủy ban quốc gia về giáo dục suốt
đời (1990), từ đó định hướng: cùng
với việc nâng cao chất lượng của giáo
dục bằng cấp trong hệ thống chính
quy cần
đẩy mạnh nền giáo dục đề cao giá trị và kết quả học tập trong hệ thống phi chính quy,
đặc biệt là thông qua tự
học, ở mọi lúc, mọi nơi và bằng mọi phương tiện. Định hướng này đã tạo điều kiện cho
người dân tiếp cận ngày càng nhiều với hình thức học không chính quy
và phi chính quy. Xin nêu một con
số: Dân số nước Nhật hiện có gần 130 triệu, nhưng số người đến học
tại hơn 18000 Kominkan năm 2010 là gần 250 triệu lượt người. Trong khi đó Việt Nam có gần 86 triệu
dân nhưng mới có hơn 13 triệu lượt người đến học tại 10.696 Trung tâm học
tập cộng đồng (số liệu của Bộ GD-ĐT tháng 5/2011).
Từ
cuối những năm 1980, UNESCO khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã cố
gắng phổ biến kinh nghiệm của Nhật Bản tới các nước trong khu vực. Nhiều nước đã vận dụng thành công như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Malayxia, Việt Nam và một số
nước khác.
Trung Quốclà nước đông dân nhất thế giới; từ một nước có nền kinh tế phát
triển chậm hơn nhiều nước, nhưng hơn 20 năm qua đã có sự phát triển
vượt bậc. Từ thập kỷ 80 của thế kỷ
XX, Trung Quốc đã nhận thấy sự thua kém về trình độ phát triển giáo
dục đào tạo và khoa học công nghệ là nguyên nhân chính của sự thua kém
trong phát triển kinh tế, nên đã đặt ra yêu cầu: “Giáo dục phải có
nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế, phục vụ kinh tế”. và đã thực hiện ba chuyển đổi lớn trong
giáo dục:
- Chuyển
giáo dục nghĩa vụ sang giáo dục phổ cập cưỡng bức.
- Chuyển
giáo dục nghề nghiệp sơ cấp, trung cấp sang giáo dục nghề nghiệp cao
cấp.
- Chuyển
giáo dục đại học tinh hoa sang giáo dục đại học đại chúng.
Để
thực hiện ba chuyển đổi đó, Trung Quốc chú trọng dạy văn hóa và dạy
nghề cho nông dân, tổ chức trung học nghiệp dư cho nông dân, công nhân,
người lao động và nhân viên trong các cơ quan, doanh nghiệp; tăng cường mởmở các lớp đại học tại chức,
đại học buổi tối cho công nhân, viên chức; mở rộng hệ thống đào tạo
từ xa qua hệ thống phát thanh và truyền hình đối với bậc trung học
và cao đẳng cho đông đảo nhân dân.
Tại
cộng đồng thôn bản, trưởng thôn hoặc đội trưởng sản xuất phải tổ
chức cho dân học các kiến thức, kỹ năng liên quan đến cuộc sống và
lao động của cộng đồng.
Chính
từ những việc làm cụ thể và bền bỉ đó đến nay Trung Quốc đã phát triển vượt bậc và mới đây đã trở
thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới thay thế vị trí của
Nhật.
Sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế của các quốc gia nêu trên cho thấy việc xây
dựng xã hội học tập là rất quan trọng và là xu thế tất yếu của thời đại
phát triển hiện nay. Nhân tố đầu tiên
quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia chính là chất lượng
nguồn nhân lực, là trình độ lao động sáng tạo của người lao động, là
năng lực làm chủ tri thức mới và công nghệ mới. Điều đó chỉ có thể có được trên cơ sở phát triển giáo dục đào tạo, trên
cơ sở đẩy mạnh sự học, “học,
học nữa, học mãi”như Lê-Nin đã từng nói.
Đến
nay nhiều quốc gia đã chủ động đổi mới nền giáo dục, xây dựng nền
giáo dục mở để tạo cơ hội và điều kiện cho người dân học tập suốt
đời, đồngthời làm cho mỗi người dân nhận thức một cách sâu sắc rằng muốn có một việc làm tốt, ổn định,muốn cống hiến xứng đáng cho xã hộithì phải luôn cập nhật kiến thức, phải thường xuyên không ngừng tiếp cận với
cái mới để có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động đang
biến đổi khôn lường, đáp ứng đòi hỏi phát triển đất nước ngày càng cao.
Ở
nước ta như trên đã nêu, Đảng và Nhà nước đã sớm đề ra chủ trương xây dựng Xã hội học tập. Chủ
trương xây dựng xã hội học tập ban hành đã trên mười năm nhưng nhiều người,
trong đó có cả cán bộ, đảng viên vẫn chưa nắm được khái niệm xã hội học tập, chưa nhận thức được tính chất quan trọng và sự cần thiết
của xã hội học tập do đó chưa quan tâm đến vấn đề xây dựng
xã hội học tập.
Xã
hội học tập là một xã hội, trong đó, mọi người dân đều có nhu cầu và nghĩa vụ
học tập, đều được tạo cơ hội và điều kiện học tập. Nhà nước đảm bảo cho ai cũng được học hành, học
thường xuyên, học suốt đời,
trong đó ý thức tự học, học một cách tự giáclà yếu tố quyết định nhất.
Trong
xã hội học tập tất
cả các lĩnh vực, các ngành, các
tổ chức từ chính trị kinh tế đến văn
hoá xã hội… đều có trách nhiệm đáp ứng nhu cầu học của các thành viên,
tạo điều kiện để từng người dân có thể tiếp cận việc học một cách
dễ dàng và thuận lợi.
Trong
xã hội học tập, mỗi người dân đều có nghĩa vụ tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục. Quá trình xây dựng xã hội học tập cần được thực hiện theo tinh thần
xã hội hóa như chỉ thị 11-CT/TW ngày 13/4/2007 của Bộ Chính Trị đã khẳng định: “Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”, của tất cả các tổ chức kinh tế, văn
hoá, xã hội, các đoàn thể quần chúng trong toàn xã hội.
Trong
xã hội học tập, nền giáo dục được cấu trúc thành hai hệ thống giáo dục có sự
liên thông với nhau, hỗ trợ lẫn nhau: hệ
thống giáo dục ban đầu, (hệ thống giáo dục chính quy trong nhà trường), chủ
yếu dành cho thế hệ trẻ và hệ thống giáo
dục tiếp tục (hệ
thống giáo dục không chính quy ngoài nhà trường) chủ yếu dành cho
người lớn. Quá trình giáo dục gắn liền với
toàn bộ đời sống con người, không phân biệt tuổi tác, ở
bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, mọi người đều
có điều kiện học và phải học.
Để
có một tổ chức xã hội làm nhiệm vụ vận động toàn dân học tập, phát huy truyền
thống hiếu học của dân tộc, hỗ trợ hoạt động dạy và học trong nhà trường và tạo
điều kiện mở rộng các hình thức học ngoài nhà trường, Đảng và Nhà nước đã cho thành
lập Hội khuyến khích và hỗ trợ phát triển giáo dục Việt Nam (gọi tắt là Hội
Khuyến Học Việt Nam). Ngày 2/10/1996 Hội Khuyến Học ViệtNamra đời.
Đến
nay, Hội vừa tròn 15 tuổi. Tuy tuổi đời
còn rất trẻ nhưng Hội Khuyến Học Việt Nam đã trở thành một tổ chức quần
chúng sâu rộng có trên 8,5 triệu hội viên. Tổ chức của Hội đã có mặt ở tất cả
63 tỉnh, thành, 100% huyện, thị, quận, gần 100% xã, phường, nhanh chóng lan toả
đến hầu hết các, thôn, bản, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang,
nhà chùa, xứ đạo… với gần 300.000 chi hội. Nhiệm vụ chính trị của Hội là đẩy mạnh
các cuộc vận động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Về công tác khuyến học,
Hội đã tích cực động viên mọi người tham gia học tập, thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước về xã hội hóa trong giáo dục, đặc biệt hỗ trợ các em học sinh
nghèo có điều kiện học tập,thực hiện công bằng trong giáo dục. Hàng năm có tới trên 3,5 triệu học sinh, sinh
viên nghèo và học sinh, sinh viên vượt khó học giỏi được nhận học bổng từ các
quỹ khuyến học. Nhiều trường học, nhiều
xã nghèo được Hội giúp xây dựng trường lớp, tủ sách hoặc thư viện, nhân dân nhiều địa phương đã góp tiền, hiến đất,
góp vật tư xây dựng trường lớp bị xuống cấp hoặc bị hư hỏng do thiên tai. Nhiều học sinh nghèo được nhận thẻ bảo hiểm y
tế. Nhiều học sinh khuyết tật được trang
bị phương tiện hỗ trợ điều kiện để có thể tới trường.
Đối
với người lớn:nông dân ở nông thôn, lao động ở thành thị, Hội đã cùng ngành giáo dục và đào tạo
xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng,
một thiết chế giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân trên địa bàn xã, phường,
thị trấn. Đến nay đã có 10.696 Trung tâm, chiếm trên 96% số xã, phường,
thị trấn trong cả nước. Mỗi năm, có hơn
13 triệu lượt người đến các trung tâm học tập cộng đồng để được tiếp thu tiến bộ
khoa học công nghệ cần cho sản xuất, được nghe thông báo về thời sự, học tập chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, được nghe phổ biến các luật lệ cần thiết
v.v...
Về công tác khuyến tài,
mỗi năm Hội đã có hàng chục nghìn phần thưởng dành cho học sinh, sinh viên có
thành tích học tập tốt, những thủ khoa trong các kỳ thi tốt nghiệp hoặc thi tuyển
vào các trường đại học, cao đẳng, các học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc
gia và quốc tế. Đặc biệt từ năm 2005 đến nay, Hội đã tổ chức “Giải
thưởng Nhân tài đất Việt” hàng năm, lúc đầu về Công nghệ - Thông tin, tiếp đó mở
rộng sang lĩnh vực khoa học tự nhiên, y học và sẽ tiếp tục mở rộng sang các lĩnh
vực khác , qua đó động viên được đông đảo người dân, nhất là thanh niên, đi sâu
vào công tác nghiên cứu sáng tạo, kết quả là nhiều công trình được ứng dụng vào
sản xuất và đời sống một số công trình được xuất khẩu ra nước ngoài, được nguyên
Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết đánh giá là "vườn ươm
nhân tài cho đất nước".
Thực
hiện chỉ thị 11- CT/TW ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Hội đã và đang nỗ lực thực hiện vai trò
nòng cốt liên kết, phối hợp hoạt động của các ngành, các tổ chức chính trị xã hội... trong cuộc vận động
toàn dân tham gia khuyến
học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Các hoạt động của Hội đều được các tầng lớp
nhân dân hoan nghênh và nhiệt
tình hưởng
ứng nên các
cuộc vận động do Hội đề xướng như xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học,
thôn, bản, khu phố khuyến học...đều được mọi người tích cực tham gia thực hiện. Hiện nay, rất nhiều cơ quan, xí nghiệp, đơn vị
lực lượng vũ trang đã mở các lớp học thường
xuyên để nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên, công nhân, chiến sĩ... Rất nhiều doanh nghiệp đã có những khoản ngân
sách dành riêng cho việc hỗ trợ giáo dục. Các chi nhánh của Quỹ Khuyến học như Quỹ nhân ái, Quỹ vòng tay đồng đội,...
còn giúp xây dựng cầu, đường, cung cấp phao cứu hộ, xuồng... để cho trẻ em ở
những vùng sông nước có điều kiện thuận lợi đến trường.
Tuy xây dựng xã hội học tập và yêu cầu học tập suốt đời
là một xu thế lớn, xu thế chung của thế giới hiện đại, nhưng do mỗi nước đều có
hoàn cảnh và điều kiện khác nhau nên không thể có một mô hình định sẵn để các nước
noi theo, mỗi nước xuất phát từ xu thế chung đó phải căn cứ vào điều kiện cụ thể
của mình mà xây dựng xã hội học tập phù hợp. Đặc biệt đối với nước ta do có rất
nhiều khác biệt giữa các vùng miền: giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi
và miền ngược, giữa đồng bằng, trung du và vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu
số, khác biệt không chỉ về trình độ học vấn, mà cả về trình độ dân trí, khác biệt
về trình độ phát triển kinh tế, khác biệt cả về điều kiện địa lý tự nhiên nên
xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập không thể ngày một ngày hai có thể
thực hiện được. Chúng ta phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, đi từng bước vững
chắc, đi từ cơ sở đi lên. Trong sự nghiệp này truyền thống hiếu học từ ngàn đời
của dân tộc và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, là yếu tố cực kỳ quan trọng
bảo đảm thành công. Trong những năm trước mắt Hội Khuyến học Việt Nam phối hợp
chặt chẽ với ngành giáo dục đào tạo, với sự tham gia của các ngành, các cấp, các
tổ chức chính trị, xã hội... quyết ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần
thứ XI của Đảng “đẩy mạnh xây dựng xã hội
học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời” nhằm
trong tương lai không xa đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc thông thái, đưa nước
ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn./.
Nguyễn Mạnh Cầm **
* Trích Cương lĩnh xây dựng đất nưởc trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bổ sung và phát triển năm 2011.
** Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
(Ghi chú: Bài này đã đăng trên Báo Nhân Dân dịp Kỷ niệm 15 năm thành lập Hội Khuyến học Việt Nam)
|
|